tư tưởng chủ đề là gì
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, chính đảng nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện tư tưởng, phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng vào quần chúng, cổ vũ, động viên, lôi cuốn, thúc đẩy quần chúng có hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý
Chủ đề của truyện Chiếc lược ngà là gì - Tài liệu 1000 câu hỏi ôn tập môn Ngữ văn lớp 9 được biên soạn theo bài học bám sát chương trình Ngữ văn 9 giúp các em học tốt môn Văn 9 để ôn thi vào lớp 10 môn Văn đạt kết quả cao. Cách làm bài văn Nghị luận về một
Tư tưởng chính trị nó là sách lược nhằm tổ quốc ta hạn chế lại quân giặc. Tư tưởng chủ yếu trị bị đốt, bị chôn nhưng mà vẫn sinh sống trong tâm fan dân. Dân tộc đất nước hình chữ S thực hiện công ty nghĩa Mác - Lênin là thiết bị trình bày, là căn nguyên bốn tưởng thiết yếu trị.
1. Tư tưởng là gì? Theo cách hiểu đơn giản, thuật ngữ tư tưởng chính là quan điểm của cá nhân, cộng đồng phản ánh hiện thực khách quan về nhiều khía cạnh đời sống như: vấn đề đạo đức, nhận thức, cách đối nhân xử thế giữa con người với con người trong xã hội
Và ý tưởng chủ đạo cùng chủ đề của mỗi sự kiện chính là chìa khóa, là kim chỉ nam cho mỗi sự kiện. Do vậy, mỗi nhà tổ chức cần phải đầu tư thời gian và công sức để có được những ý tưởng mới lạ, và có được những chủ đề hợp với từng sự kiện nhất.
Dating While Separated But Not Divorced. ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ, TƯ TƯỞNG, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ1. Đề tàia. khái niệmề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. có khả năng nói, đề tài là khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và bản thân cuộc sống. Người ta có thể xác định đề tài trên 2 phương diện bên ngoài và bên cập đến phương diện bên ngoài là đề cập đến sự LH thuần túy đến phạm vi hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Ở đây, sự xác định đề tài thường dựa trên cơ sở các phạm trù lịch sử- xã hội. có thể nói đến đề tài chống Pháp, chống Mĩ, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ đội…mặc khác, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản ánh và thấy được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào phương diện bên trong của đề tài. ó là đời sống nào, con người nào…được thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính chất của đề tài bên ngoài. Trong trường hợp này, đề tài chính là vấn đề được thể hiện trong tác phẩm và trong thường xuyên trường hợp nó trùng khít với chủ ề tài và đối tượngề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất 2 khái niệm này. ối tượng là một phần của khách thể mà con người có khả năng chiếm lĩnh, phù hợp với một mong muốn, một tiềm lực nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa được chủ thể nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng là cơ sở của đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử trong tác ề tài và hệ thống đề tàiTrong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất thường xuyên đề tài liên quan nhéu, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng “Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác”. Như vậy, khi đề cập đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề Tính lịch sử -cụ thể của đề tàiề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà nhà văn đang sống, do đó nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học, có khả năng nhận thấy trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác nhéu. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ 19, đề tài về số phận của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ cách mạng, về những người làm công nhân tiên tiến lại nổi lên hàng những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết…Có người cho rằng đấy là những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay chính một nhà văn khi viết về một phạm vi đời sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là một cái gì mới mẻ, không lặp Tính khách quan tương đối của đề tài– Khách quan. ề tài có tính khách quan vì bản thân nó chưa thể hiện tính tư tưởng. Những nhà văn có lập trường tư tưởng khác nhéu, thậm chí đối nghịch nhéu vẫn có khả năng cùng viết về một đề tài.– Tương đối. Tính khách quan của đề tài cũng chỉ mang tính tương đối vì xét đến cùng, đề tài ít nhiều cũng gắn bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm và hứng thú của nhà văn đối với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất phát từ chỗ đứng, quan điểm tư tưởng, thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà văn Chủ đềa. Khái niệmChủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đềChủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định. Nói cách khác, chủ đề không phải là một cái gì bên trên, bên ngoài đề tài mà xuất phát từ ý đồ, từ những gợi ý của những hiện tượng đời sống cụ thể thông qua cái nhìn, quan niệm của nhà văn. Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hiện thực khách quan và tư tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, cùng viết về một đề tài gần gũi, nhà văn vẫn nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhéu tùy thuộc vào tài năng, khả năng thâm nhập cuộc sống và lí tưởng thẩm mĩ của nhà đề gắn bó với đề tài nhưng nhiều khi nó vượt qua những giới hạn của những đề tài chi tiết mà nêu lên những vấn đề khái quát, rộng lớn hơn. không nên nghĩ rằng viết về đề tài nông dân, công nhân, trí thức… thì chủ đề cũng sẽ bị hạn định với những tầng lớp cụ thể, xác định đó. Những tác phẩm văn học lớn, bên cạnh việc phản ánh những nội dung lịch sử xã hội cụ thể, bao giờ cũng từ đó, nêu lên những vấn đề chung có ý nghĩa khái quát về thân phận, nỗi đâu, hạnh phúc của con người. do đó, không nên hạn chế ý nghĩa của chủ đề trong phạm vi đề tài xác Chủ đề và hệ thống chủ đềTrong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống chủ đề Pospelôp gọi là hệ vấn đề. Trong hệ thống chủ đề, có khả năng nổi lên vài chủ đề có ý nghĩa trung tâm, quán xuyến toàn bộ tác phẩm. ó là chủ đề chính. và cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề không có tổng giá trị ngang nhéu nên việc xác định đúng đắn chủ đề chính, chủ đề phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa của tác Tư tưởng của tác phẩm văn họca. Khái niệm chungNhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung chi tiết sống động của tác phẩm văn học tương đương những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời…Do bắt buộc của tư duy khái quát, người ta thường đúc kết tư tưởng của tác phẩm bằng một vài mệnh đề ngắn gọn, trừu tượng. Thực ra, tư tưởng náu mình trong những hình tượng sinh động, những cảm hứng sâu lắng của tác có thể coi đề tài và chủ đề thuộc về phương diện khách quan thì tư tưởng tác phẩm thuộc về phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác tưởng tác phẩm văn học là sự khái quát của cả hai phương diện lí giải, nhận thức và khát vọng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm thông qua hình tượng nghệ thuật. Nó gắn bó chặt chẽ với đề tài và chủ đề và được biểu hiện tập trung ở ba phương diện Sự lí giải chủ đề, khoái cảm tư tưởng và tình điệu thẩm Sự lí giải chủ đềKhái niệmChủ đề và sự lí giải chủ đề có liên quan với nhau nhưng không phải là một. Nếu chủ đề chú ý đến vấn đề đặt ra trong tác phẩm xuất phát từ hiện thực thì sự lí giải chủ đề lại quan tâm đến sự giải thích, cắt nghĩa, nhận thức của nhà văn về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm dựa trên một quan điểm nhất định nào đó. ây là phương diện rất cơ bản trong nội dung tư tưởng của tác đề của Tắt đèn là đời sống bị bần cùng hóa của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng tác giả không những nêu ra đời sống đó mà còn lí giải nó. Trên lập trường nhân đạo chủ nghĩa, Ngô Tất Tố cắt nghĩa, giải thích đời sống khổ đau, bế tắc đó đồng thời bộc lộ rõ thái độ, quan điểm, cảm xúc của mình trước những hiện tượng khác nhau của cuộc sống. Qua sự lí giải chủ đề, người đọc sẽ thấy được sức khái quát và sự hiểu biết sâu sắc của nhà văn về cuộc hiện của sự lí giải chủ đề trong tác phẩmSự lí giải chủ đề có khả năng được biểu hiện trong tất cả những yếu tố của tác phẩm nhưng nhìn chung thường được xem xét trên 2 mặt những lời thuyết minh trực tiếp của tác giả, của nhân vật và tính khách quan của hình tượng nghệ thuật, lôigic của sự mô tả. Hai mặt này nhìn chung thường thống nhất với nhéu. Người đọc cần chú trọng đến tính khách quan của hình tượng nghệ thuật hơn bởi vì ý nghĩa của tác phẩm chủ yếu được biểu hiện thông qua hình tượng nghệ thuật chứ không phải là ở những phát ngôn trực tiếp của tác cảm hứng tư tưởng của tác niệmNgay từ thời cổ Hy Lạp và sau này Hégel và Biêlinxki đều đặn đã sử dụng từ khoái cảm tiếng Hy Lạp cổ Pathos để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi là thái độ tư tưởng-tình cảm đối với những điều được miêu cảm của nhà văn và khoái cảm tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật thiết với nhéu nhưng không phải là một. cảm hứng tư tưởng là tình cảm mãnh liệt, một ham muốn tích cực, là tư tưởng của nhà văn được thể hiện chi tiết, sinh động trong hình tượng nghệ thuật của tác thể hiện của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn 2 khả năng thể hiện rõ rệt cảm hứng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm qua thái độ- tư tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện tượng, tính cách được miêu tả khẳng định hoặc phủ định đối với những điều được miêu tả. Khẳng định lí tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái xấu, là sự đồng tình, cảm thông, ngợi những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các thế lực đen tối. iều này làm cho tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng, “thiên vị” đối với những nhân vật lí tưởng mà tác giả yêu mến và cho phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin khẳng định”Nếu thiếu một tư tưởng thiên vị không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên tạc người khác mà là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm thì sẽ không có sức sống sôi động. Ngẫu nhiên, rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng. Không tình tiết nào có khả năng bù đắp cho thiếu sót đó”.Trong văn học, mối tương quan giữa 2 có khả năng này có khả năng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn văn học, vào từng nhà văn cụ hứng bắt nguồn từ tình cảm nhưng đó là tình cảm thường xuyên chiều, phức hợp chứ không phải đơn điệu. Những hài kịch của Molière, phía sau nụ cười là những giọt nước mắt. thường xuyên bài thơ của Hồ Xuân Hương, bên cạnh giọng điệu tưởng chừng như bỡn cợt là nỗi xót xa sâu sắc về thân phận của người phụ nữ, là sự khẳng định giá trị của người phụ nữ…cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái “loa” phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bài thơ “Không chồng mà chữa” của Hồ Xuân Hương là sự khẳng định tình yêu, là sự cảm thông sâu sắc về sự cả nể của cô gái. ó không phải là điều tội lỗi, không phải là một điều vô đạo đức. Tác giả không trực tiếp lên án xã hội phong kiến nhưng những câu thơ tự nó đã nói lên điều Tình điệu thẩm mĩ khoái cảm thẩm mĩCùng với các khái niệm đề tài, chủ đề, sự lí giả chủ đề, cảm hứng tư tưởng…nội dung tư tưởng của tác phẩm còn được khái quát và biểu hiện qua tình điệu thẩm niệm chungTình điệu thẩm mĩ là hệ thống những tổng giá trị được khái quát và thể hiện trong tác phẩm. Mọi tác phẩm văn học trong khi phản ánh hiện thực đều đặn tái hiện những lớp hiện tượng cuộc sống giá trị thẩm mĩ nhất định, độc đáo và không lặp lại. Chính tình trạng này làm cho tư tưởng của tác phẩm khác với tư tưởng trong các lĩnh vực điệu thẩm mĩ là toàn bộ không khí, mùi vị, cảm giác, hơi thở, nhịp điệu tiêng bao trùm lên tác phẩm. do đó cũng thật khó để chỉ rõ và phân biệt rạch ròi tình điệu thẩm mĩ và các yếu tố khác trong tác điệu thẩm mĩ và khoái cảm tư tưởngHai khái niệm này gắn bó chặt chẽ, khó thể tách rời nhưng cũng có khả năng phân biệt ở những mức độ nhất cảm tư tưởng là niềm say mê, nhiệt tình khẳng định hay phủ định, thể hiện tinh thần chiến đấu nhằm bảo vệ công lí, lẻ phải…Tình điệu thẩm mĩ là phẩm chất, tổng giá trị thẩm mĩ của nội dung tác phẩm. Tình điệu thẩm mĩ có thể được khái quát vào các phạm trù mĩ học như cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, cái bi, cái hài và các biến thể của chúng. chẳng hạn, cái sầu, cái hận, cái thống thiết,cái buồn…là các dạng khác nhéu của cái bi; chất humour, châm biếm, trào lộng…là các dạng của cái hài; sự hài hòa, cân đối, hoàn thiện, cái xinh xắn là sự biểu hiện của cái đẹp; cái lớn lao, phi thường, mênh mông, bát ngát…là sự biểu hiện của cái cao lại, những yếu tố được trình bày trên tồn tại thống nhất hữu cơ trong tác phẩm và sự phân biệt chúng với nhau cũng chỉ có tính chất tương Ý nghĩa và tổng giá trị của tác phẩm văn họca. Khái niệm chungnói đến ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học là đề cập đến sự đánh giá, thẩm định các phương diện thuộc về nội dung tư tưởng tình cảm, nội dung nhận thức, nghệ thuật, sự chân thành của tình cảm….được thể hiện trong tác Những nguyên nhân tạo nên sự lí giải khác nhéu về tác phẩm nguyên nhân từ phía người đọcTác phẩm văn học được sáng tác là để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm chỉ tồn tại với tư cách là một tác phẩm đích thực khi nó đến với người đọc. Người đọc ở đây là một khái niệm hết sức rộng lớn, bao quát, đa dạng, phức tạp…bao gồm các tầng lớp người khác nhau về giai cấp, dân tộc, trình độ văn hóa, lứa tuổi, nam hay nữ, kinh nghiệm, năng khiếu, cảm xúc thẩm mĩ… với những động cơ và mục đích đọc tác phẩm khác nhéu. Chính sự khác biệt này là một tác nhân quan trọng trong việc định giá tác phẩm văn chủ quan của ngừơi đọcCó một quan niệm tương đối phổ biến ở phương ông tương đương ở phương Tây khẳng định vai trò chủ quan của người đọc trong việc tiếp nhận, thưởng thức và đánh giá tác phẩm. Những người theo quan niệm này cho rằng đọc tác phẩm không phải là tái hiện lại một cách trung thành những điều tác giả đã gửi gắm và thể hiện trong tác phẩm mà chủ yếu là tìm kiếm tâm hồn mình qua tác phẩm, người đọc là người kể lại tâm hồn mình qua những kiệt tác khách quan của người đọcLí giải sự cảm thụ, đánh giá tác phẩm khác nhéu dựa trên cơ sở chủ quan của người đọc là đúng đắn. Nếu như trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, dấu ấn cá nhân được thể hiện đậm nét thì trong lĩnh vực thống kê, cảm thụ nghệ thuật cũng có tình trạng tương tự. tuy nhiên, sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng người đọc là yếu tố hoàn toàn chủ quan trong việc xác định giá trị của tác phẩm văn chương. Bởi vì nếu vậy thì sẽ không lí giải nổi thường xuyên hiện tượng văn học khác nhéuTại sao có một số tác phẩm được đánh giá cao ở giai đoạn này nhưng đến giai đoạn khác thì hoàn toàn ngược lại?Tại sao trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhéu, người ta lại thường chú ý và khai thác một cách khác nhéu một số yếu tố nào đó trong tác phẩm?Tại sao sau khi xem xong một tác phẩm nghệ thuật, người đọc nói chung đều đặn có khả năng có một ấn tượng chung nào đó về tác phẩm, về một vài nhân vật? Trương Phi, Quan Công, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Sở Khanh….Chính do đó, khi nói đến tổng giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, không thể tách rời với những hoàn cảnh văn hóa-lịch sử- xã hội nhất nghĩa và tổng giá trị của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào vai trò chủ quan của người đọc, đặc biệt là những người đọc chuyên nghiệp những nhà phê bình, nghiên cứu. Nhưng người đọc ở đây là những con người chi tiết và sống trong một môi trường, một hoàn cảnh xã hội, một thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, người đọc ở mỗi thời đại khác nhéu sẽ có cái nhìn không hoàn toàn giống nhau về giá trị của tác phẩm. Nếu coi sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ thì tiếp nhận nghệ thuật cũng không thể thoát li khỏi những điều kiện lịch sử trong những thời kì nhất định. Trong quy trình tiếp nhận tác phẩm văn học, mỗi cá nhân đến với tác phẩm không những đem đến cho nó cái tôi mà còn cả cái ta nữa. Người đọc sẽ cắt nghĩa, định giá cho tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích dân tộc, xã hội, mong muốn tinh thần và thẩm mĩ không giống nhau qua từng thời kì lịch sử nhất nhân từ phía bản thân tác phẩmtổng giá trị của tác phẩm không những do người đọc, thời đại mang đến mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính bản thân tác phẩm. Và có thể nói đây là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết liệt vì nó giúp cho ta giải thích được lí do người đọc cảm nhận, đánh giá tác phẩm khác nhau. tổng giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không giống nhau một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do tính mơ hồ, đa nghĩa ở nhiều phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện trong tác trong số những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là tính mơ hồ, đa nghĩa và cũng từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được đầy đủ và đánh giá thống nhất với nhau về một tác học là nghệ thuật của ngôn ngữ, văn học phản ánh cuộc sống trong tính toàn vẹn, sinh động thông qua hình tượng nghệ thuật với một cấu trúc phức tạp, phong phú nhằm thể hiện những cảm nhận và khái quát của nhà văn về cuộc đời. Chính Vì vậy người đọc không dễ gì nắm bắt được một cách đầy đủ ý nghĩa vốn có của nó. Sẽ không có gì quá đáng nếu có người coi tính mơ hồ, đa nghĩa không những là nét đặc trưng của văn học mà còn gắn liền với số phận lịch sử của mơ hồ, đa nghĩa trước hết được biểu hiện ở ngôn ngữ. ây vốn là thuộc tính của ngôn ngữ toàn dân nhưng khi sáng tác nhà văn luôn có ý thức hướng về một ngôn ngữ mang tính hàm súc, đa nghĩa, gợi nên ở người đọc những cách giải thích, những mối tương quan khác nhau, làm cho một chữ mà nghĩ ba năm chưa xong, giảng nghìn năm chưa hếtNguyễn Cư Trinh. ây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên sức sống, chiều sâu và tổng giá trị nghệ thuật cho tác phẩm văn W. Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý định biểu hiện nhiều loại sự vật, cho phép có thường xuyên cách giải thích khác nhau. GS. Trần ình Sử đã tóm tắt những loại ý nghĩa mơ hồ của ngôn ngữ văn học mà Empơxơn đã nêu ra như sau 1. Nói vật này mà như nói tới vật khác vì giữa những sự vật ấy có thường xuyên điểm giống nhau;2. Ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh cho phép;3. Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều đặn thông;4. Lời trần thuật của tác giả có mâu thuẩn, không nhất trí, nhưng đều đặn thể hiện trạng thái chung của tư tưởng của nhà văn; giả vừa viết ý này nhưng lại hé ra một ý khác chân thực hơn thuộc về vô thức;6. Ý nghĩa mặt chữ của lời trần thuật vừa trùng lặp vừa mâu thuẫn khiến cho người đọc có khả năng giải thích trái ngược nhéu;7. Một từ có hai nghĩa, hai loại giá trị mơ hồ nhưng lại là hai ý nghĩa trái ngược nhau do văn cảnh qui định.. Sau Empơxơn, các nhà thống kê cũng nói đến các biện pháp chuyển nghĩa để tạo nên tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học như mỉa mai, nhại, nghịch lí, song quan, tượng trưng…Bên cạnh ngôn ngữ, tính cách nhân vật cũng thường là một yếu tố tạo nên những cảm nhận khác nhau, đặc biệt là các điển hình nhân vật. Những nhân vật được xây dựng thành công trong văn học xưa nay thường không bao giờ dễ dàng một chiều mà luôn phong phú, phức tạp. Họ là những con người cụ thể, sinh động nhưng cùng lúc ấy cũng mang trong mình những vấn đề của một thời đại, những vấn đề của con người nói chung, nó có những nét nhòe, khó xác định mà không phải thời đại nào cũng có thể hiểu được… Nếu coi tác phẩm văn học như một cách thức tranh luận của nhà văn về đời sống thì sự tranh luận đó được thể hiện rõ nét qua các nhân vật mà nhà văn đem hết tâm huyết của mình để xây dựng nên. Những nhân vật điển hình càng sâu sắc, càng thường nhật bao nhiêu thì khả năng biểu hiện phẩm chất người ở mức độ này hay mức độ khác qua các thời kì lịch sử khác nhau càng lớn bấy khi xây dựng các hình tượng nhân vật, nhất là những nhân vật chính, nhà văn bao giờ cũng gửi gắm vào đó những tư tưởng tình cảm của mình. Ở những nhà văn lớn, tư tưởng- tình cảm thường cũng không đơn giản, một chiều mà là một phức hợp, đa dạng bao gồm những nỗi niềm, tâm sự, những lời kí thác, những điều mà nhà văn gửi gắm cho độc giả với thường xuyên cách diễn đạt khác nhéu. Nhà văn có thể diễn đạt trực tiếp quan niệm của mình qua ngôn ngữ chính luận hoặc thông qua hình tượng nghệ thuật, ẩn chứa trong các cụ thể, trong cách xử lí về không gian thời gian, trong kết cấu, trong giọng điệu…mà không phải người đọc thời nào cũng chú ý để có khả năng phát hiện hết thể nói tác phẩm có bao nhiêu yếu tố là có bấy nhiêu chỗ để nhà văn gửi gắm tâm sự của mình, từ những từ ngữ đơn giản đến toàn bộ cấu trúc phức tạp và phong phú. Chính sự đa dạng và phức tạp đó tạo nên sự phong phú và phức tạp của nội dung tư tưởng và cách thức nghệ thuật. iều này cũng có nghĩa là tổng giá trị của tác phẩm nằm trong chính những yếu tố nội tại của bản thân tác phẩm, trong tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm. Nhưng những tổng giá trị đó không đứng yên mà luôn vận động tùy thuộc vào sự vận động của cuộc sống, lí tưởng thẩm mĩ của từng thời đại và năng khiếu cũng như kinh nghiệm của người cảm thụ.Đào Văn Âu, Lý luận văn học
Chủ đề là gì?Những đặc điểm cơ bản của Chủ đềTrong các tác phẩm văn học, hình thức và nội dung là hai phần không thể tách rời của một văn bản, đồng thời, chúng cũng có mối quan hệ vô cùng mật thiết với nhau. Nội dung chỉ có thể thể hiện trong hình thức, và ngược lại, hình thức phải là hình thức của một nội dung nào đó. Tuy nhiên, trong nghiên cứ khoa học, hình thức và nội dung lại cần phải được phân chia ra rõ ràng, việc này có thể giúp họ tìm hiểu được sâu hơn và tuần tự hơn vào các lớp của văn bản, cũng như giúp họ hiểu được dần hơn mối quan hệ giữa nhà văn và hiện thực đời sống xã hội để chuyên nghiên cứu về một phương diện nào đó của văn đề là một trong những khía cạnh về nội dung được các nhà khoa học sớm tìm hiểu và nghiên cứu. Vậy Chủ đề là gì?, hãy cùng Chúng tôi tham khảo bài viết dưới đề là gì?Như đã nói từ phần mở đầu, Chủ đề là một trong các khái niệm thường xuyên được nhắc tới thuộc về mặt nội dung của văn đề được hiểu là các vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Chủ đề thể hiện điều quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc dụ– Chủ đề của tác phẩm “Tắt đèn” là sự mâu thuẫn giữa nông dân và bọn cường bá, quan lại xã hội Việt Nam về thời kỳ phong kiến.– Chủ đề của tác phẩm truyện ngắn “Lão Hạc” là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cảnh chiến tranh, đói nghèo. Qua đó, toát lên nhân cách cao đẹp, lòng tự trọng của họ trước hoàn cảnh cuộc sống nghiệt đặc điểm cơ bản của Chủ đềThứ nhất Chủ đề không phụ thuộc vào khuôn khổ văn đề của văn bản là những tư tưởng hoặc những vấn đề mà thông qua tác phẩm, tác giả muốn truyền tải và phản ánh hiện thực tới người đọc. Vì vậy, có thể tác phẩm đó là truyện, có thể là tùy bút, có thể là thơ, … có thể ngắn, có thể dài nhưng chủ đề mà tác giả truyền tải chỉ có một. Nói cách khác, chủ đề nhiều hay ít không phải dựa vào độ dài của tác phẩm được viết dụ– Trong “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, bài thơ chỉ vỏn vẹn có 4 câu tương đương với 28 chữ, tuy nhiên, có lại như một bản tuyên ngôn độc lập dưới thời nhà Trần. Khẳng định độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là sự quyết tâm chống lại 3 lần xâm lược của quân Nguyên – Mông hung hãn.– Hay trong tác phẩm truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một tác phẩm truyện ngắn với nội dung và độ dài của truyện khá lớn. Thông qua tác phẩm, tác giả muốn khai thác sâu hơn về vẻ đẹp của những người con vùng đất Tây Nguyên gan dạ, kiên cường, dũng cảm trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.– Hoặc trong tác phẩm tùy bút “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, chủ đề được tác giả nêu lên một cách vô cùng nổi bật. Đó chính là sự cống hiến, hy sinh vô cùng thầm lặng của những người con sinh ra trên mảnh đất Sa Pa đầy thơ mộng, đó có thể là anh thanh niên công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, đó cũng có thể là bác lái xe, hoặc cũng có thể là ông họa sỹ già, … họ là những người âm thầm lặng lẽ cống hiến cho quốc gia, đất nước, và mong muốn đất nước ngày một tốt đẹp hai Mỗi văn bản có thể có một hoặc nhiều chủ đề tùy thuộc và quy mô và ý định của tác tác phẩm văn học được viết ra, nó là tâm huyết của tác giả trong một thời gian ngắn, cũng có thể là tâm huyết cả cuộc đời họ, mà trong đó, họ đã đặt nặng những tâm tư, tình cảm của mình. Thông qua tác phẩm, họ có thể muốn truyền đạt những điều tốt đẹp trong cuộc sống, hoặc cũng có thể nêu bật lên những cái tiêu cực, đồng thời, mong muốn con người hướng tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc vậy, tùy thuộc vào tâm nguyện của tác giả đối với tác phẩm mà chủ đề được nêu bật lên trong tác phẩm có thể là một, hoặc hai, hoặc nhiều hơn thế dụTrong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, hai chủ đề lớn được tác giả nêu nổi bật lên trong tác phẩm, đó chính là– Vẻ đẹp vô cùng chân thực của người lao động vùng núi Tây Bắc. Đó là một ông lão già dặn nhưng sức mạnh phi thường, thông thạo địa hình, qua đó, ca ngợi sức mạnh của con người có thể vươn lên trên mọi hoàn cảnh, chiến thắng sự dữ dội và khắc nghiệt của thiên nhiên.– Ca ngợi vẻ đẹp của con sông Đà hùng vĩ và dữ dội, hung bạo nhưng cũng đầy trữ tình của con sông Đà, qua đó thể hiện cái đẹp vô cùng tươi mới, đầy sức sống mãnh liệt, kiêu sa của thiên nhiên vùng núi Tây Bắc đầy khắc đây là một số vấn đề có liên quan đến Chủ đề là gì? cùng một vài ví dụ đi kèm. Mong rằng đây sẽ là một nguồn tài liệu bổ ích có thể giúp Quý bạn đọc trong quá trình nghiên cứu và làm việc. Nếu vẫn còn thắc mắc hoặc để biết thêm nhiều thông tin, Quý bạn đọc có thể liên hệ với chúng tôi để được tư vấn. Xin cảm ơn.
Chủ đề tiếng Anh theme ; tiếng Pháp sujet là vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định Tác phẩm viết về cái gì ?, thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì ? Chủ đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung của tác phẩm. Ví dụ Cuộc sống cơ cực, bế tắc của người nông dân Việt Nam qua chính sách sưu thuế tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến ở những năm 30 của thế kỷ XX là chủ đẻ của tiểu thuyết Tắt đèn Ngô Tất Tố. Chủ đề của bài thơ Việt Bắc Tố Hữu là tình cảm quyến luyến mặn nồng giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc ở giờ phút chia tay sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Chủ đề bao giờ cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài, Tuy nhiên trong thực tế văn học lại tồn tại một tình trạng phổ biến là nhiều tác phẩm cùng hướng về một đề tài nhưng chủ đề của chúng lại khác nhau chẳng hạn Theo chân Bác của Tố Hữu với Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên hay Tắt đèn của Ngô Tất Tố với Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Chí Phèo của Nam Cao. Chủ đề tác phẩm nói lên chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống. Vì vậy, từ những đề tài cụ thể, rất bình thường, tác giả có thể nêu lên những chủ đề mang ý nghĩa khái quát to lớn, sâu sắc. Cùng với tư tưởng, chủ đề tạo ra tầm vóc của tác phẩm. Ở những tác phẩm văn học có nội dung cụ thể rộng lớn, cốt truyện phức tạp phân thành nhiều tuyến, khối lượng nhân vật phong phú, người ta thường phân biệt chủ để chính và các chủ đề phụ, vì ở đây nhà văn có thể đặt ra hàng loạt vấn đề chẳng hạn, Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô, Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi,…. Trong trường hợp này, chủ đề chính được xem là vấn đề bao quát nhất, chủ yếu nhất, còn chủ đề phụ là những vấn đề có ý nghĩa nhỏ hơn, thứ yếu hơn và có liên quan chặt chẽ với chủ đề chính. Sự phân biệt thiếu chính xác chủ đề chính và các chủ đề phụ sẽ dẫn đến sự nhìn nhận, đánh giá tác phẩm sai lệch,… Cũng do mối quan hệ khăng khít của chủ đề và tư tưởng mà có khi người ta hiểu chủ đề là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Trong nghiên cứu văn học hiện đại, chủ đề còn được xem là phạm vi quan tâm chủ quan của nhà văn đối với thế giới, là hằng số tâm lí của nhà vãn, gắn với quan niệm thế giới của tác giả.
Chủ đề tư tưởng của đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta là gì? Bài trước Bài sau Chủ đề tư tưởng của đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta là gì?Trọn bộ câu hỏi ôn tập về bài Về luân lí xã hội ở nước ta Ngữ văn lớp 11 chọn lọc, cực hay. Với bộ câu hỏi bài Về luân lí xã hội ở nước ta này, học sinh sẽ ôn tập, nắm vững kiến thức môn Ngữ văn 11 để đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn hỏi Chủ đề tư tưởng của đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta là gì?Trả lờiChủ đề tư tưởng của tác phẩm Đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, tương lai tươi sáng của đất nước.
ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ, TƯ TƯỞNG, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ 1. Đề tài a. khái niệm ề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói, đề tài là khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và bản thân đời sống. Người ta có thể xác định đề tài trên 2 phương diện bên ngoài và bên trong. Nói đến phương diện bên ngoài là nói đến sự liên hệ thuần túy đến phạm vi hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Ở đây, sự xác định đề tài thường dựa trên cơ sở các phạm trù lịch sử- xã hội. Có thể nói đến đề tài chống Pháp, chống Mĩ, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ đội… Tuy nhiên, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản ánh và thấy được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào phương diện bên trong của đề tài. ó là cuộc sống nào, con người nào…được thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính chất của đề tài bên ngoài. Trong trường hợp này, đề tài chính là vấn đề được thể hiện trong tác phẩm và trong nhiều trường hợp nó trùng khít với chủ đề. b. ề tài và đối tượng ề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất 2 khái niệm này. ối tượng là một phần của khách thể mà con người có thể chiếm lĩnh, phù hợp với một nhu cầu, một năng lực nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa được chủ thể nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng là cơ sở của đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử trong tác phẩm. c. ề tài và hệ thống đề tài Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng “Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác”. Như vậy, khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài. d. Tính lịch sử -cụ thể của đề tài ề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà nhà văn đang sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học, có thể nhận thấy trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác nhau. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ 19, đề tài về số phận của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ cách mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên hàng đầu. Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết…Có người cho rằng đấy là những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay chính một nhà văn khi viết về một phạm vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là một cái gì mới mẻ, không lặp lại. e. Tính khách quan tương đối của đề tài – Khách quan. ề tài có tính khách quan vì bản thân nó chưa thể hiện tính tư tưởng. Những nhà văn có lập trường tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau vẫn có thể cùng viết về một đề tài. – Tương đối. Tính khách quan của đề tài cũng chỉ mang tính tương đối vì xét đến cùng, đề tài ít nhiều cũng gắn bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm và hứng thú của nhà văn đối với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất phát từ chỗ đứng, quan điểm tư tưởng, thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà văn đó. 2. Chủ đề a. Khái niệm Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. b. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề Chủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định. Nói cách khác, chủ đề không phải là một cái gì bên trên, bên ngoài đề tài mà xuất phát từ ý đồ, từ những gợi ý của những hiện tượng cuộc sống cụ thể thông qua cái nhìn, quan niệm của nhà văn. Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hiện thực khách quan và tư tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, cùng viết về một đề tài gần gũi, nhà văn vẫn nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc vào tài năng, khả năng thâm nhập đời sống và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Chủ đề gắn bó với đề tài nhưng nhiều khi nó vượt qua những giới hạn của những đề tài cụ thể mà nêu lên những vấn đề khái quát, rộng lớn hơn. Không nên nghĩ rằng viết về đề tài nông dân, công nhân, trí thức… thì chủ đề cũng sẽ bị hạn định với những tầng lớp cụ thể, xác định đó. Những tác phẩm văn học lớn, bên cạnh việc phản ánh những nội dung lịch sử xã hội cụ thể, bao giờ cũng từ đó, nêu lên những vấn đề chung có ý nghĩa khái quát về thân phận, nỗi đâu, hạnh phúc của con người. Vì vậy, không nên hạn chế ý nghĩa của chủ đề trong phạm vi đề tài xác định. c. Chủ đề và hệ thống chủ đề Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống chủ đề Pospelôp gọi là hệ vấn đề. Trong hệ thống chủ đề, có thể nổi lên vài chủ đề có ý nghĩa trung tâm, quán xuyến toàn bộ tác phẩm. ó là chủ đề chính. Bên cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn chủ đề chính, chủ đề phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa của tác phẩm. 3. Tư tưởng của tác phẩm văn học a. Khái niệm chung Nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời…Do yêu cầu của tư duy khái quát, người ta thường đúc kết tư tưởng của tác phẩm bằng một số mệnh đề ngắn gọn, trừu tượng. Thực ra, tư tưởng náu mình trong những hình tượng sinh động, những cảm hứng sâu lắng của tác giả. Nếu có thể coi đề tài và chủ đề thuộc về phương diện khách quan thì tư tưởng tác phẩm thuộc về phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm. Tư tưởng tác phẩm văn học là sự khái quát của cả hai phương diện lí giải, nhận thức và khát vọng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm thông qua hình tượng nghệ thuật. Nó gắn bó chặt chẽ với đề tài và chủ đề và được biểu hiện tập trung ở ba phương diện Sự lí giải chủ đề, cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ. b. Sự lí giải chủ đề Khái niệm Chủ đề và sự lí giải chủ đề có liên quan với nhau nhưng không phải là một. Nếu chủ đề chú ý đến vấn đề đặt ra trong tác phẩm xuất phát từ hiện thực thì sự lí giải chủ đề lại quan tâm đến sự giải thích, cắt nghĩa, nhận thức của nhà văn về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm dựa trên một quan điểm nhất định nào đó. ây là phương diện rất cơ bản trong nội dung tư tưởng của tác phẩm. Chủ đề của Tắt đèn là cuộc sống bị bần cùng hóa của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng tác giả không chỉ nêu ra cuộc sống đó mà còn lí giải nó. Trên lập trường nhân đạo chủ nghĩa, Ngô Tất Tố cắt nghĩa, giải thích cuộc sống khổ đau, bế tắc đó đồng thời bộc lộ rõ thái độ, quan điểm, cảm xúc của mình trước những hiện tượng khác nhau của cuộc sống. Qua sự lí giải chủ đề, người đọc sẽ thấy được sức khái quát và sự hiểu biết sâu sắc của nhà văn về cuộc đời. Biểu hiện của sự lí giải chủ đề trong tác phẩm Sự lí giải chủ đề có thể được biểu hiện trong tất cả những yếu tố của tác phẩm nhưng nhìn chung thường được xem xét trên 2 mặt những lời thuyết minh trực tiếp của tác giả, của nhân vật và tính khách quan của hình tượng nghệ thuật, lôigic của sự mô tả. Hai mặt này nhìn chung thường thống nhất với nhau. Người đọc cần chú trọng đến tính khách quan của hình tượng nghệ thuật hơn bởi vì ý nghĩa của tác phẩm chủ yếu được biểu hiện thông qua hình tượng nghệ thuật chứ không phải là ở những phát ngôn trực tiếp của tác giả. c. Cảm hứng tư tưởng của tác phẩm. Khái niệm Ngay từ thời cổ Hy Lạp và sau này Hégel và Biêlinxki đều đã dùng từ cảm hứng tiếng Hy Lạp cổ Pathos để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi là thái độ tư tưởng-tình cảm đối với những điều được miêu tả. Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Cảm hứng tư tưởng là tình cảm mãnh liệt, một ham muốn tích cực, là tư tưởng của nhà văn được thể hiện cụ thể, sinh động trong hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Sự thể hiện của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học. Có 2 khả năng thể hiện rõ nét cảm hứng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm qua thái độ- tư tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện tượng, tính cách được miêu tả khẳng định hoặc phủ định đối với những điều được miêu tả. Khẳng định lí tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái xấu, là sự đồng tình, cảm thông, ngợi những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các thế lực đen tối. iều này làm cho tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng, “thiên vị” đối với những nhân vật lí tưởng mà tác giả yêu mến và cho phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin khẳng định”Nếu thiếu một tư tưởng thiên vị không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên tạc người khác mà là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm thì sẽ không có sức sống sôi động. Ngẫu nhiên, rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng. Không tình tiết nào có thể bù đắp cho thiếu sót đó”. Trong văn học, mối tương quan giữa 2 khả năng này có thể khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn văn học, vào từng nhà văn cụ thể. Cảm hứng bắt nguồn từ tình cảm nhưng đó là tình cảm nhiều chiều, phức hợp chứ không phải đơn điệu. Những hài kịch của Molière, phía sau nụ cười là những giọt nước mắt. Nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương, bên cạnh giọng điệu tưởng chừng như bỡn cợt là nỗi xót xa sâu sắc về thân phận của người phụ nữ, là sự khẳng định giá trị của người phụ nữ… Cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái “loa” phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bài thơ “Không chồng mà chữa” của Hồ Xuân Hương là sự khẳng định tình yêu, là sự cảm thông sâu sắc về sự cả nể của cô gái. ó không phải là điều tội lỗi, không phải là một điều vô đạo đức. Tác giả không trực tiếp lên án xã hội phong kiến nhưng những câu thơ tự nó đã nói lên điều đó. d. Tình điệu thẩm mĩ Cảm hứng thẩm mĩ Cùng với các khái niệm đề tài, chủ đề, sự lí giả chủ đề, cảm hứng tư tưởng…nội dung tư tưởng của tác phẩm còn được khái quát và biểu hiện qua tình điệu thẩm mĩ. Khái niệm chung Tình điệu thẩm mĩ là hệ thống những giá trị được khái quát và thể hiện trong tác phẩm. Mọi tác phẩm văn học trong khi phản ánh hiện thực đều tái hiện những lớp hiện tượng đời sống giá trị thẩm mĩ nhất định, độc đáo và không lặp lại. Chính điều này làm cho tư tưởng của tác phẩm khác với tư tưởng trong các lĩnh vực khác. Tình điệu thẩm mĩ là toàn bộ không khí, mùi vị, cảm giác, hơi thở, nhịp điệu tiêng bao trùm lên tác phẩm. Vì vậy cũng thật khó để chỉ rõ và phân biệt rạch ròi tình điệu thẩm mĩ và các yếu tố khác trong tác phẩm. Tình điệu thẩm mĩ và cảm hứng tư tưởng Hai khái niệm này gắn bó chặt chẽ, khó thể tách rời nhưng cũng có thể phân biệt ở những mức độ nhất định. Cảm hứng tư tưởng là niềm say mê, nhiệt tình khẳng định hay phủ định, thể hiện tinh thần chiến đấu nhằm bảo vệ công lí, lẻ phải…Tình điệu thẩm mĩ là phẩm chất, giá trị thẩm mĩ của nội dung tác phẩm. Tình điệu thẩm mĩ có thể được khái quát vào các phạm trù mĩ học như cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, cái bi, cái hài và các biến thể của chúng. chẳng hạn, cái sầu, cái hận, cái thống thiết,cái buồn…là các dạng khác nhau của cái bi; chất humour, châm biếm, trào lộng…là các dạng của cái hài; sự hài hòa, cân đối, hoàn thiện, cái xinh xắn là sự biểu hiện của cái đẹp; cái lớn lao, phi thường, mênh mông, bát ngát…là sự biểu hiện của cái cao cả. Tóm lại, những yếu tố được trình bày trên tồn tại thống nhất hữu cơ trong tác phẩm và sự phân biệt chúng với nhau cũng chỉ có tính chất tương đối. 4. Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học a. Khái niệm chung Nói đến ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học là nói đến sự đánh giá, thẩm định các phương diện thuộc về nội dung tư tưởng tình cảm, nội dung nhận thức, nghệ thuật, sự chân thành của tình cảm….được thể hiện trong tác phẩm. b. Những nguyên nhân tạo nên sự lí giải khác nhau về tác phẩm Nguyên nhân từ phía người đọc Tác phẩm văn học được sáng tác là để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm chỉ tồn tại với tư cách là một tác phẩm đích thực khi nó đến với người đọc. Người đọc ở đây là một khái niệm hết sức rộng lớn, bao quát, đa dạng, phức tạp…bao gồm các tầng lớp người khác nhau về giai cấp, dân tộc, trình độ văn hóa, lứa tuổi, giới tính, kinh nghiệm, năng khiếu, cảm xúc thẩm mĩ… với những động cơ và mục đích đọc tác phẩm khác nhau. Chính sự khác biệt này là một nguyên nhân quan trọng trong việc định giá tác phẩm văn học. Tính chủ quan của ngừơi đọc Có một quan niệm tương đối phổ biến ở phương ông cũng như ở phương Tây khẳng định vai trò chủ quan của người đọc trong việc tiếp nhận, thưởng thức và đánh giá tác phẩm. Những người theo quan niệm này cho rằng đọc tác phẩm không phải là tái hiện lại một cách trung thành những điều tác giả đã gửi gắm và thể hiện trong tác phẩm mà chủ yếu là tìm kiếm tâm hồn mình qua tác phẩm, người đọc là người kể lại tâm hồn mình qua những kiệt tác Tính khách quan của người đọc Lí giải sự cảm thụ, đánh giá tác phẩm khác nhau dựa trên cơ sở chủ quan của người đọc là đúng đắn. Nếu như trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, dấu ấn cá nhân được thể hiện đậm nét thì trong lĩnh vực nghiên cứu, cảm thụ nghệ thuật cũng có tình trạng tương tự. Tuy nhiên, sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng người đọc là yếu tố hoàn toàn chủ quan trong việc xác định giá trị của tác phẩm văn chương. Bởi vì nếu vậy thì sẽ không lí giải nổi nhiều hiện tượng văn học khác nhau Tại sao có một số tác phẩm được đánh giá cao ở giai đoạn này nhưng đến giai đoạn khác thì hoàn toàn ngược lại? Tại sao trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, người ta lại thường chú ý và khai thác một cách khác nhau một vài yếu tố nào đó trong tác phẩm? Tại sao sau khi xem xong một tác phẩm nghệ thuật, người đọc nói chung đều có thể có một ấn tượng chung nào đó về tác phẩm, về một số nhân vật? Trương Phi, Quan Công, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Sở Khanh…. Chính vì vậy, khi nói đến giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, không thể tách rời với những hoàn cảnh văn hóa-lịch sử- xã hội nhất dịnh. Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào vai trò chủ quan của người đọc, đặc biệt là những người đọc chuyên nghiệp những nhà phê bình, nghiên cứu. Nhưng người đọc ở đây là những con người cụ thể và sống trong một môi trường, một hoàn cảnh xã hội, một thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, người đọc ở mỗi thời đại khác nhau sẽ có cái nhìn không hoàn toàn giống nhau về giá trị của tác phẩm. Nếu coi sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ thì tiếp nhận nghệ thuật cũng không thể thoát li khỏi những điều kiện lịch sử trong những thời kì nhất định. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học, mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cả cái ta nữa. Người đọc sẽ cắt nghĩa, định giá cho tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích dân tộc, xã hội, nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ không giống nhau qua từng thời kì lịch sử nhất định. Nguyên nhân từ phía bản thân tác phẩm Giá trị của tác phẩm không chỉ do người đọc, thời đại mang đến mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính bản thân tác phẩm. Và có thể nói đây là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định vì nó giúp cho ta giải thích được lí do người đọc cảm nhận, đánh giá tác phẩm khác nhau. Giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không giống nhau một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do tính mơ hồ, đa nghĩa ở nhiều phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện trong tác phẩm. Một trong những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là tính mơ hồ, đa nghĩa và cũng từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được đầy đủ và đánh giá thống nhất với nhau về một tác phẩm. Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, văn học phản ánh đời sống trong tính toàn vẹn, sinh động thông qua hình tượng nghệ thuật với một cấu trúc phức tạp, đa dạng nhằm thể hiện những cảm nhận và khái quát của nhà văn về cuộc đời. Chính vì vậy người đọc không dễ gì nắm bắt được một cách đầy đủ ý nghĩa vốn có của nó. Sẽ không có gì quá đáng nếu có người coi tính mơ hồ, đa nghĩa không chỉ là nét đặc trưng của văn học mà còn gắn liền với số phận lịch sử của nó. Tính mơ hồ, đa nghĩa trước hết được biểu hiện ở ngôn ngữ. ây vốn là thuộc tính của ngôn ngữ toàn dân nhưng khi sáng tác nhà văn luôn có ý thức hướng về một ngôn ngữ mang tính hàm súc, đa nghĩa, gợi nên ở người đọc những cách giải thích, những mối tương quan khác nhau, làm cho một chữ mà nghĩ ba năm chưa xong, giảng nghìn năm chưa hếtNguyễn Cư Trinh. ây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên sức sống, chiều sâu và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm văn học. Theo W. Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý định biểu hiện nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích khác nhau. GS. Trần ình Sử đã tóm tắt những loại ý nghĩa mơ hồ của ngôn ngữ văn học mà Empơxơn đã nêu ra như sau 1. Nói vật này mà như nói tới vật khác vì giữa những sự vật ấy có nhiều điểm giống nhau; 2. Ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh cho phép; 3. Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều thông; 4. Lời trần thuật của tác giả có mâu thuẩn, không nhất trí, nhưng đều thể hiện trạng thái chung của tư tưởng của nhà văn; giả vừa viết ý này nhưng lại hé ra một ý khác chân thực hơn thuộc về vô thức; 6. Ý nghĩa mặt chữ của lời trần thuật vừa trùng lặp vừa mâu thuẫn khiến cho người đọc có thể giải thích trái ngược nhau; 7. Một từ có hai nghĩa, hai loại giá trị mơ hồ nhưng lại là hai ý nghĩa trái ngược nhau do văn cảnh qui định.. Sau Empơxơn, các nhà nghiên cứu cũng nói đến các biện pháp chuyển nghĩa để tạo nên tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học như mỉa mai, nhại, nghịch lí, song quan, tượng trưng… Bên cạnh ngôn ngữ, tính cách nhân vật cũng thường là một yếu tố tạo nên những cảm nhận khác nhau, đặc biệt là các điển hình nhân vật. Những nhân vật được xây dựng thành công trong văn học xưa nay thường không bao giờ đơn giản một chiều mà luôn phong phú, phức tạp. Họ là những con người cụ thể, sinh động nhưng đồng thời cũng mang trong mình những vấn đề của một thời đại, những vấn đề của con người nói chung, nó có những nét nhòe, khó xác định mà không phải thời đại nào cũng có thể hiểu được… Nếu coi tác phẩm văn học như một hình thức tranh luận của nhà văn về đời sống thì sự tranh luận đó được thể hiện rõ nét qua các nhân vật mà nhà văn đem hết tâm huyết của mình để xây dựng nên. Những nhân vật điển hình càng sâu sắc, càng phổ biến bao nhiêu thì khả năng biểu hiện phẩm chất người ở mức độ này hay mức độ khác qua các thời kì lịch sử khác nhau càng lớn bấy nhiêu. Trong khi xây dựng các hình tượng nhân vật, nhất là những nhân vật chính, nhà văn bao giờ cũng gửi gắm vào đó những tư tưởng tình cảm của mình. Ở những nhà văn lớn, tư tưởng- tình cảm thường cũng không đơn giản, một chiều mà là một phức hợp, đa dạng bao gồm những nỗi niềm, tâm sự, những lời kí thác, những điều mà nhà văn gửi gắm cho độc giả với nhiều cách diễn đạt khác nhau. Nhà văn có thể diễn đạt trực tiếp quan niệm của mình qua ngôn ngữ chính luận hoặc thông qua hình tượng nghệ thuật, ẩn chứa trong các chi tiết, trong cách xử lí về không gian thời gian, trong kết cấu, trong giọng điệu…mà không phải người đọc thời nào cũng chú ý để có thể phát hiện hết được. Có thể nói tác phẩm có bao nhiêu yếu tố là có bấy nhiêu chỗ để nhà văn gửi gắm tâm sự của mình, từ những từ ngữ đơn giản đến toàn bộ cấu trúc phức tạp và đa dạng. Chính sự đa dạng và phức tạp đó tạo nên sự đa dạng và phức tạp của nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. iều này cũng có nghĩa là giá trị của tác phẩm nằm trong chính những yếu tố nội tại của bản thân tác phẩm, trong tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm. Nhưng những giá trị đó không đứng yên mà luôn vận động tùy thuộc vào sự vận động của đời sống, lí tưởng thẩm mĩ của từng thời đại và năng khiếu cũng như kinh nghiệm của người cảm thụ. Đào Văn Âu, Lý luận văn học
tư tưởng chủ đề là gì