chồng hơn vợ 6 tuổi

Trong cuộc hôn nhân này, người chồng càng nhiều tuổi hơn vợ càng là chỗ dựa cho vợ con. Thực tế những ông chồng trưởng thành rất tâm lý và hiểu phụ nữ. Lúc nào họ biết gia đình cần gì và lên kế hoạch dài hạn hơn so với các cặp vợ chồng bằng tuổi hoặc ít tuổi. Nguyễn Cao Thu Vân và người chồng hơn 24 tuổi. Có lẽ, cuộc hôn nhân của người đẹp ảnh cuộc thi Hoa hậu thế giới người Việt 2007 Nguyễn CaoThu Vân và tiến sĩ Đoàn Đình Sơn (hơn cô 24 tuổi) - anh trai quý bà Kim Hồng là cuộc hôn nhân ngắn ngủi nhất showbiz Việt. Nam tuổi Tân mùi kết hôn với nữ tuổi Bính tý 1996 ( chồng hơn vợ 5 tuổi ) Hai tuổi này kết hôn thì gặp số Nhất phong phú, rất tốt. Mặc dù lúc đầu 2 vợ chồng phải chịu cảnh thành bại nhiều phen nhưng qua năm hạn sẽ ăn nên làm ra, tính tình 2 vợ chồng không hẳn đã Báo cáo quản trị 6 tháng đầu năm 2022 của Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) đã tiết lộ việc ngân hàng này đang nhận tài sản đảm bảo là hơn 2.000 lô đất thuộc 2 Khu dân cư Đại Nam để thay thế nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân và các doanh nghiệp có liên quan đến vợ chồng bà Nguyễn Phương Hằng – ông Huỳnh Uy Dũng. Theo những cặp đôi này, họ rất hạnh phúc khi ở bên nhau. Nhiều chị em có gia đình không ngần ngại chia sẻ, những người chồng nhiều tuổi hơn ít có sự hờn dỗi lâu trong tình yêu. Bởi với những người này, họ luôn xác định một mối quan hệ nghiêm túc. Chị Thu Minh (cán Dating While Separated But Not Divorced. Tâm sự Chủ nhật, 11/6/2023, 0900 GMT+7 Vợ chồng mình cùng cố gắng để con có tuổi thơ hạnh phúc chồng nhé. Vợ chồng lấy nhau tám năm, có hai bé. Thời gian có lẽ chưa đủ dài nhưng vợ chồng tôi đã đi qua nhiều sóng gió mà có lẽ những cặp vợ chồng 10 năm, 20 năm cũng chưa trải qua. Khi sinh con trai đầu, bé không may bị tim bẩm sinh. Hai tháng ở nhà đợi lịch mổ là quãng thời gian khó khăn nhất với hai vợ chồng, vừa cả vật chất lẫn tinh thần, nhưng khó khăn cũng qua rồi. Hiện tại kinh tế chưa phải giàu có nhưng cũng có tiền dư để phòng lúc ốm đau, tích lũy cho con sau này vào đại học. Vợ biết công việc của chồng mệt mỏi, có khi áp lực không thu được tiền về, vợ cũng không biết làm sao để chia sẻ với chồng. Từ lúc sinh con tới giờ, vợ luôn là người chăm sóc và nuôi dạy con, biết chồng vất vả nên vợ không yêu cầu chồng chia sẻ việc nhà, vì có khi đến giờ ăn cơm chồng còn đang phải này con lớn hơn, gia đình mình xảy ra nhiều việc hơn. Vợ thấy bất lực hơn trong việc nuôi dạy con. Có lẽ bây giờ một mình vợ không còn đủ sức để dạy dỗ con nữa. Hôn nhân gia đình không chỉ cần tiền là đủ, vợ hy vọng chồng quan tâm dành thời gian rảnh để nói chuyện và chơi với con và khi con phạm sai lầm, vợ hy vọng chồng nói chuyện với con một cách văn minh, giải thích cho con hiểu chứ không phải những hành động tiêu cực. Người ta bảo nhìn cây sửa đất, nhìn con sửa mình. Vợ chồng mình cùng cố gắng để con có tuổi thơ hạnh phúc chồng ThưĐộc giả gọi vào số 024 7300 8899 máy lẻ 4529 trong giờ hành chính để được hỗ trợ, giải đáp thắc mắc Trên cơ sở điều tra, khảo sát về hôn nhân năm 2017 với người tại 7 tỉnh ở Việt Nam, nghiên cứu này chỉ rõ phần lớn người dân Việt Nam hài lòng về hôn nhân của mình cũng như về các mặt của hôn nhân ở mức độ cao, trong đó hài lòng hơn cả về tình cảm vợ chồng, ít hài lòng hơn cả về đời sống vật chất của vợ chồng. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ rõ các nhân tố ảnh hưởng tới sự hài lòng về hôn nhân, bao gồm các nhân tố nhân khẩu-xã hội, như giới tính, lứa tuổi, sự khác biệt giữa vợ và chồng về học vấn, thu nhập, khu vực sống và số lượng con cái. Từ khóa Hôn nhân, nhân tố ảnh hưởng, nhân khẩu-xã hội, sự hài lòng, Việt Nam. Phân loại ngành Xã hội học Abstract Based on the 2017 marriage survey conducted with 1,819 people in seven provinces in Vietnam, this study shows that the majority of Vietnamese people are satisfied with their marriage, as well as aspects of the marriage, to a high extent. Among the aspects, they are most satisfied with the emotions of theirs and the spouses, while being less satisfied with the material life. At the same time, the study also identified factors affecting the satisfaction towards the marriage, including the socio-demographic factors, such as gender, age, the differences between husband and wife in education and income, and area of residence and number of children. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởngPhan Thị Mai Hương1, Nguyễn Hữu Minh2, Phạm Phương Thảo3, Đỗ Thị Lệ Hằng4Viện Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt huongphanmai ngày 25 tháng 9 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 3 tháng 5 năm tắt Trên cơ sở điều tra, khảo sát về hôn nhân năm 2017 với người tại 7 tỉnh ở ViệtNam, nghiên cứu này chỉ rõ phần lớn người dân Việt Nam hài lòng về hôn nhân của mình cũngnhư về các mặt của hôn nhân ở mức độ cao, trong đó hài lòng hơn cả về tình cảm vợ chồng, ít hàilòng hơn cả về đời sống vật chất của vợ chồng. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ rõ các nhân tố ảnhhưởng tới sự hài lòng về hôn nhân, bao gồm các nhân tố nhân khẩu - xã hội, như giới tính, lứatuổi, sự khác biệt giữa vợ và chồng về học vấn, thu nhập, khu vực sống và số lượng con khóa Hôn nhân, nhân tố ảnh hưởng, nhân khẩu - xã hội, sự hài lòng, Việt loại ngành Xã hội họcAbstract Based on the 2017 marriage survey conducted with 1,819 people in seven provinces inVietnam, this study shows that the majority of Vietnamese people are satisfied with their marriage,as well as aspects of the marriage, to a high extent. Among the aspects, they are most satisfied withthe emotions of theirs and the spouses, while being less satisfied with the material life. At the sametime, the study also identified factors affecting the satisfaction towards the marriage, including thesocio-demographic factors, such as gender, age, the differences between husband and wife ineducation and income, and area of residence and number of Marriage, impacting factor, socio-demographic, satisfaction, classification Sociology1. Đặt vấn đềHài lòng hôn nhân là đánh giá chủ quan củamột người về chất lượng hôn nhân của mình[22, [28, Mộtsố yếu tố cơ bản tác động đến sự hài lòng hônnhân, như giới tính, lứa tuổi, khu vực sống,số lượng con cái hay giới tính con cái…Nhiều nghiên cứu trên thế giới, cả ở phươngĐông và phương Tây, đã chỉ ra rằng571,3,4 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020phụ nữ ít hài lòng về hôn nhân hơn so vớinam giới [10, [20, Theo Bulanda [13],khác biệt về giới trong sự hài lòng hôn nhânbị ảnh hưởng bởi việc làm, chăm sóc concái, chăm sóc gia đình và yếu tố sức cạnh đó, tuổi tác cũng có thể ảnhhưởng đến mối quan hệ ở các cuộc hônnhân dài hạn. Một số nghiên cứu cho thấybiến thiên của sự hài lòng hôn nhân theo độtuổi là không đồng nhất. Lee và Shehan[20] chỉ ra rằng sự hài lòng hôn nhân giảmđi theo tuổi tác trong khi Rhyne [27] lại chothấy sự biến đổi của nó theo đường cái có ảnh hưởng đến sự hài lònghôn nhân, tuy nhiên các nghiên cứu chỉ rarằng, có những khác biệt nhất định về mứcđộ ảnh hưởng của con cái ở các xã hộiphương Tây và phương Đông. Nhìn chung,ở phương Tây, giai đoạn chuyển sang vaitrò làm cha mẹ được cho rằng làm giảm sútchất lượng hôn nhân [13, [29, Bởi theo những người làm chamẹ, con cái làm hạn chế sự gần gũi giữa haivợ chồng và do đó ảnh hưởng đến sự hàilòng của họ, biểu hiện vợ chồng dành ítthời gian cho nhau, ít giao tiếp với nhau vàcó thể trải qua nhiều xung đột hơn khi họgánh vác vai trò làm cha khi đó, ở các nước phương Đông,ví dụ ở Nepal [10, việc có con làmột giá trị được coi trọng và là một phầnthiết yếu đối với hôn nhân. Do đó, việc cócon làm tăng sự hài lòng trong hôn thế, việc chăm sóc con cái ở Nepalkhông chỉ được đảm nhận bởi các cặp vợchồng mà còn bởi nhiều thành viên khácsống cùng trong gia đình hoặc sống gần vớigia đình. Điều đó góp phần giảm bớt ảnhhưởng của việc chăm sóc con cái đến haivợ nghiên cứu gần đây cho thấy sốlượng con cái có liên quan mật thiết đếnmức độ không hài lòng trong hôn nhân [29, [18, Theo Kohler,Behrman và Skytthe [19], tại Đan Mạch, sựra đời của đứa con đầu tiên là nguồn vui rấtquan trọng đối với phụ nữ ở độ tuổi từ 25-45 cũng như người chồng của họ. Tuynhiên, sự ra đời của những đứa con kế tiếpkhông còn tạo được ảnh hưởng như vậy nữavới phụ nữ. Dường như phụ nữ kỳ vọngrằng đứa con đầu tiên giúp họ chứng minhđược sự nữ tính của mình và đồng thời thắtchặt cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, với nhữngđứa con sau, họ lại cảm thấy rất không hàilòng về cuộc sống hôn nhân, bởi họ làngười chăm sóc con cái chính trong nhà vàhọ phải trải nghiệm nhiều áp lực và căngthẳng hơn người chồng của mình [16].Ở một số nước mang tính cộng đồng cao,nhiều tác giả đã nhận thấy rằng số lượng concái và sự hài lòng hôn nhân có mối quan hệtương quan thuận chiều hầu hết các gia đìnhthường là gia đình lớn, và các thành viên giađình khác sẽ hỗ trợ người mẹ nuôi dạy concái [26], [15, nhiên, ở các nước phát triển, sựtham gia lao động của người phụ nữ bênngoài phạm vi gia đình, chi phí nuôi dạy vàcho con đi học tăng dần, sự phụ thuộc củacha mẹ già vào con cái giảm đi vì có hệthống an sinh xã hội. Điều này làm choviệc có nhiều con không phải là sự kỳ vọngcủa nhiều người [25, công trình nghiên cứu cũng chỉ raảnh hưởng của giới tính con cái đến mức độhài lòng trong hôn nhân của cha mẹ, tuynhiên các phát hiện không thống nhất vớinhau. Kết quả nghiên cứu tại Mỹ [21] chobiết chồng và vợ có con trai cảm thấy thỏamãn trong hôn nhân cao hơn so với nhữngcặp vợ chồng chỉ có con gái. Andersson vàWoldemicael [12] chỉ ra rằng ở Thụy Điển,cha mẹ có cả con trai và con gái thường ítcó xu hướng ly dị hơn những cặp cha mẹ có58 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngcon một bề. Trái ngược hẳn với điều này,Mizell và Steelman [24] lại phát hiện thấyrằng việc có con một bề tạo ảnh hưởng tíchcực tới sự hài lòng hôn nhân hơn so vớiviệc có cả con trai và con gái. Khi có concái ở cả hai giới, cha mẹ có thể bị chia rẽthành hai nhóm do chính giới tính của mìnhvà sự chia rẽ này làm giảm tương tác mangtính cặp đôi giữa hai kiện kinh tế có tác động không nhỏđến đời sống của các cặp vợ chồng và đếnchất lượng hôn nhân của họ. Nghiên cứucủa Amato cùng công sự [12] cho thấy,việc giảm những lo lắng về kinh tế sẽ làmgia tăng sự hài lòng hôn nhân, đồng thờilàm giảm xung đột trong hôn vậy, sự hài lòng về hôn nhân có thểbiểu hiện khác nhau ở các xã hội, đồng thờivai trò của các yếu tố nhân khẩu - xã hộiđối với sự hài lòng hôn nhân không đồngnhất, mà phụ thuộc vào bối cảnh khảo đến nay, chủ đề về sự hài lòng hônnhân gần như chưa được quan tâm nghiêncứu một cách hệ thống ở Việt Nam. Dựatrên kết quả cuộc khảo sát “Những đặcđiểm cơ bản của hôn nhân ở Việt Nam hiệnnay và các yếu tố ảnh hưởng” thuộcChương trình cấp Bộ “Nghiên cứu, đánhgiá tổng thể về gia đình thời kỳ công nghiệphóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhậpquốc tế”, với phỏng vấn bằng bảnghỏi, tại các địa phương thuộc 7 tỉnh/thànhphố ở Việt Nam5, bài viết này phân tích sựhài lòng về hôn nhân của người Việt Namvà các yếu tố ảnh Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Sự hài lòng về hôn nhân nói chung vàvề các mặt của đời sống hôn nhânBảng 1 cho thấy rõ mức độ hài lòng về hônnhân nói chung và với các mặt của đời sốnghôn nhân của người Việt 1 Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Nam [7] N=1819, điểm trung bình dựa trên thang điểm 10Trung bình Độ lệch chuẩnHài lòng chung về hôn nhân8,20 1,25Tình cảm8,37 1,34Sự đồng thuận/ hiểu biết8,25 1,37Đời sống tình dục8,08 1,50Đời sống vật chất7,58 1,60Thực hiện việc gia đình8,09 1,60Tính cách và ứng xử của vợ/ chồng8,21 1,45Điểm trung bình từ 7,58 trở lên trên thangđiểm 10 cho thấy rằng người dân rất hài lòngvới hôn nhân của mình, trên bình diện chung,cũng như ở từng khía cạnh cụ thể. Chỉ riêngnhững người rất hài lòng với hôn nhân điểm9 và 10 đã chiếm gần một nửasố người được hỏi 42,4%,. Trong khi đó,những người không hài lòng với hôn nhâncủa mình điểm 4 trở xuống chỉ chiếm 1%.Kết quả cho thấy, người Việt Nam hài lòngnhất về tình cảm vợ chồng và ít hài lònghơn với đời sống vật chất của gia Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Việc thu thập dữ liệu bằng cách hỏi trựctiếp về những vấn đề liên quan đến đánh giá,nhất là về hôn nhân, nhiều người Việt Namcó thể e ngại đánh giá thấp sự hài lòng củamình với người lạ. Tâm lý “cái tốt trưng ra,cái xấu đậy lại” có thể ảnh hưởng đến câu trảlời của người dân về vấn đề này, khiến họđánh giá cao sự hài lòng của mình. Tuynhiên, trên một bình diện khác, kết quả nàykhá thống nhất với những nghiên cứu cùngchủ đề ở Việt Nam. Đó là mức độ hài lòngvới hôn nhân luôn được đánh giá ở mức cao[3, [5, 8].Đánh giá hài lòng về hôn nhân có thể làsự nhìn nhận chung của cá nhân về hônnhân ngay tại thời điểm khảo sát, nhưng đócũng có thể là đánh giá cả quá trình hônnhân trên tổng thể. Dù là đánh giá mangtính thời điểm hay quá trình thì nó cũngphản ánh sự gặp gỡ giữa cái họ có được từhôn nhân với những chuẩn mực riêng màhọ đặt ra cho hôn nhân. Thực tế đời sốnghôn nhân bao gồm đa dạng các khía cạnhkhác nhau, thậm chí rất khác biệt như vậtchất tiền bạc, thu nhập, chi tiêu, tài sản…,tinh thần tình cảm, văn hóa ứng xử…,thực thể tình dục, sự hấp dẫn thể xác, sứckhỏe…, người bạn đời tính cách, nănglực…. Câu hỏi đặt ra ở đây là quan hệgiữa sự hài lòng nói chung về hôn nhân vớicác khía cạnh khác nhau này như thế nào?So sánh điểm hài lòng chung về hônnhân điểm trung bình 8,2 với điểm trungbình cộng 6 mặt của đời sống hôn nhânđiểm trung bình 8,09 thì thấy chúngkhông hoàn toàn trùng khít mà có sự chênhlệch, nhưng không đáng kể. Tương quangiữa sự hài lòng chung về hôn nhân với hàilòng về từng mặt của đời sống hôn nhântrong nghiên cứu này là thuận và khá chặthệ số tương quan R nằm trong khoảng0,65-0,84 nghĩa là ở những cặp vợ chồngcó sự hài lòng hôn nhân nói chung mà caothì cũng hài lòng cao về từng mặt và ngượclại. Như thế, sự hài lòng chung phản ánh sựhài lòng của từng mặt trong đời sống sánh vai trò của từng mặt đối với sựhài lòng hôn nhân nói chung, phân tích hồiqui tuyến tính bội cho thấy rằng, 6 mặtđược khảo sát trong nghiên cứu này đều lànhững yếu tố dự báo mạnh cho hài lòngchung, chứng tỏ đó là những mặt rất quantrọng của đời sống hôn nhân, góp phần tạora hạnh phúc vợ chồng Bảng 2.Bảng 2 Dự báo của các mặt trong đời sống hôn nhân đến sự hài lòng hôn nhân [7]Các biến độc lậpBiến phụ thuộc Sự hài lòng chung về hôn nhânSự hài lòng về ß T PTình cảm vợ chồng 0,417 21,926 < cách và ứng xử của vợ/ chồng 0,194 10,135 < sống vật chất 0,145 10,489 < sống tình dục 0,108 7,136 < đồng thuận/ hiểu biết 0,099 5,304 < hiện việc gia đình 0,074 4,595 < số tương quan R2 điều chỉnh 0,802Hệ số F6,1806 1224,52960 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ HằngKết quả cho thấy khi những điều kiệnkhác là như nhau, thì đối với người ViệtNam, trong hôn nhân, dù rất hài lòng chỉmột mặt nào đó thì cũng có thể vừa đủ đểlàm vợ chồng cảm thấy hài lòng, chứ khôngnhất thiết mọi thứ đều phải hoàn lại, rất không hài lòng với chỉ mộtlĩnh vực nào đó, chất lượng hôn nhân cũngcó thể bị suy giảm. Kết quả cũng cho thấyrằng, trong số các mặt được khảo sát, sự hàilòng với tình cảm vợ chồng có ý nghĩamạnh nhất đối với sự hài lòng chung về hônnhân. Đây là lĩnh vực riêng tư và có thể coilà lĩnh vực quan trọng nhất làm nên chấtlượng của đời sống vợ chồng. Yếu tố quantrọng thứ 2 là hài lòng về tính cách và cáchứng xử của vợ/ chồng; xếp vị trí cuối cùnglà hài lòng về thực hiện việc nhà của Sự hài lòng về hôn nhân theo các đặcđiểm nhân khẩu - xã hộiCác nghiên cứu đã chỉ ra, sự hài lòng hônnhân của mỗi cá nhân có mối quan hệ vớiđặc điểm nhân khẩu của họ. Do mối tươngquan chặt chẽ giữa sự hài lòng chung với sựhài lòng các mặt cụ thể, ở đây tập trungphân tích mối quan hệ giữa sự hài lòngchung và các đặc điểm nhân khẩu - xã hộigồm giới tính, tuổi, học vấn, số con, giớitính con, hoạt động nghề chính trong 12tháng trước khảo sát, mức sống, và khu vựcsống.Kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kểgiữa nam điểm trung bình 8,43 và nữđiểm trung bình 8,09 về mức độ hài lònghôn nhân p<0,01. Đối với các nhóm tuổi,sự khác biệt thể hiện chủ yếu giữa nhómtuổi từ 60 tuổi trở lên điểm trung bình8,76 và nhóm 40-49 tuổi điểm trung bình8,29 so với các nhóm còn lại điểm trungbình 8,15. Như vậy, nhìn chung có sự tănglên mức độ hài lòng theo tuổi tác, tuynhiên, quan hệ này không tuyến tính. Kếtquả cũng chỉ ra không có sự khác biệt đángkể về mức độ hài lòng hôn nhân giữa cácnhóm có trình độ học vấn khác tích theo đặc điểm số con có thểnhận thấy mức độ hài lòng hôn nhân củanhóm có một con điểm trung bình 8,62cao hơn đáng kể so với các nhóm khác, đặcbiệt là hơn nhóm có từ ba con trở lên điểmtrung bình 8,09. Theo truyền thống ViệtNam, con cái là giá trị quan trọng của hạnhphúc hôn nhân, đông con nhiều cháu là mộttrong những mong muốn của nhiều gia đìnhtruyền thống [4, [6, Tuynhiên, kết quả này cho thấy, hiện nay, quanniệm này cũng đang dần thay đổi. Kết quảnày cũng thống nhất với Kết quả điều tragia đình Việt Nam năm 2006 [1], đa sốngười trả lời khảo sát, đặc biệt là nhóm vịthành niên, không đồng ý với việc gia đìnhcó nhiều con mặc dù, việc sinh con vẫn tiếptục là một chức năng quan trọng của giađình. Điều đó gợi ý rằng, sinh nhiều conkhông còn là chỉ báo quan trọng của sự hàilòng hôn cạnh yếu tố số con thì giới tính concũng có ý nghĩa quan trọng đối với ngườiViệt Nam. Gia đình Việt Nam truyền thốngcoi trọng con trai hơn con gái vì có liênquan đến sự nối dõi tông đường và nghĩa vụchăm sóc cũng như quyền lợi thừa kế củanhững đứa con sau này [2, Kếtquả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006[1] và Nghiên cứu vị thành niên và thanhniên Việt Nam năm 2009 [8, cũngcho thấy một bộ phận lớn dân cư và thanhniên vẫn còn mong muốn nhất thiết phải cócon trai. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,61 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020giả định về mức độ hài lòng hôn nhân caohơn đối với gia đình có con trai so với giađình có con gái, không được xác nhận,thậm chí mức độ hài lòng cao nhất thuộc vềnhóm người chỉ có con gái điểm trungbình 8,50 Bảng 3.Bảng 3 Mức độ hài lòng về hôn nhân theo đặc điểm nhân khẩu - xã hội [7].Đặc điểm nhân khẩu - xã hội Điểm hài lòng Độ lệch Ntrung bình chuẩnChung8,25 2,471819Giới tính** Nam8,43 1,05873Nữ8,09 3,26946Nhóm tuổi* 29 trở xuống8,15 0,9815930-398,15 1,1850940-498,29 1,1848050-598,15 1,3347860 trở lên8,76 6,69192Học vấn hiện tại Tiểu học trở xuống8,09 1,35390Trung học cơ sở8,21 1,23658Trung học phổ thông8,50 4,51433Trung cấp-Cao đẳng-Đại học8,19 1,29337Số con* Chưa có con8,18 1,0172Một con8,62 4,96356Hai con8,23 1,25820Ba con trở lên8,07 1,27571Giới tính con Chưa có con8,18 1,0172Chỉ con trai8,26 1,23461Chỉ con gái8,50 4,91368Có cả trai và gái8,15 1,26918HoạtđộngchínhCao cấp-Trung cấp8,41 1,2422512 tháng trước Sơ cấp-nhân viên kỹ thuật8,21 1,25406khảo sát Không làm việc8,50 1,27163Lao động giản đơn8,19 3,121007Mức sống**Khá8,49 1,12282Trung bình8,27 2,761348Nghèo7,79 1,50189Khu vực Nông thôn8,16 1,231012Thành thị8,36 3,44807Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, tố việc làm tỏ ra không có ảnhhưởng đáng kể đến mức độ hài lòng, mặcdù nếu xét theo trình độ chuyên môn thìnhóm có trình độ cao cấp - trung cấp vẫn cómức độ hài lòng cao hơn nhóm sơ cấp -nhân viên kỹ thuật và nhóm lao động giảnđơn. Nhóm không làm việc có mức độ hàilòng cao nhất, tuy nhiên nhóm này khôngphân biệt rõ về mặt trình độ chuyên mônvới các nhóm khác, vì vậy không sử dụng62 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngđể so sánh. Không có gì ngạc nhiên khi cókhác biệt đáng kể về mức độ hài lòng hônnhân giữa nhóm có mức sống khá trở lênđiểm trung bình 8,49 với nhóm nghèođiểm trung bình 7,79, p<0,01. Ngườithành thị có mức hài lòng hôn nhân cao hơnnông Sự hài lòng về hôn nhân theo so sánhđặc điểm của vợ và chồngSự hài lòng với hôn nhân có thể bị ảnhhưởng bởi những khác biệt giữa vợ vàchồng. Nghiên cứu này kiểm chứng mốiliên hệ giữa sự hài lòng hôn nhân và khácbiệt về đặc điểm vợ chồng với giả địnhrằng, sự hài lòng hôn nhân sẽ cao hơn nếucác cặp vợ chồng có sự tương đồng nhau vềđặc điểm nhân khẩu - xã hội. Có 4 biến sốđộc lập được sử dụng là sự khác biệt vềtuổi, học vấn, thu nhập và tham gia côngviệc nội trợ Bảng 4.Bảng 4 Mức độ hài lòng về hôn nhân theo đặc điểm nhân khẩu - xã hội so sánh giữa vợ và chồng [7].Đặc điểm nhân khẩu - xã hội Điểm hài lòng Độ lệch Ntrung bình chuẩnChung 8,25 2,47 1819Sự khác biệt về Vợ hơn chồng 8,25 1,25 196tuổi Vợ bằng chồng 8,29 1,24 220Chồng hơn vợ 1-5 tuổi 8,24 3,11 1024Chồng hơn vợ 6 tuổi trở lên 8,27 1,18 373Khác biệt học Bằng nhau 8,29 3,05 1065vấn giữa vợ và Vợ hơn chồng 8,11 1,17 283chồng Chồng hơn vợ 8,27 1,22 449Khác biệt thu Vợ hơn chồng 7,93 1,41 310nhập giữa vợ và Chồng hơn vợ 8,26 1,16 980chồng* Ngang nhau 8,47 4,20 505Tham gia công Làm bằng nhau 8,80 6,28 215việc nội trợ** Chồng làm nhiều hơn 8,22 1,27 125Vợ làm nhiều hơn 8,18 1,24 1464Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, vào phân bố tuổi chênh giữa vợ và Đối với khác biệt về học vấn cũng tươngchồng mà độ chênh được chia thành các tự, mặc dù nhóm vợ học cao hơn chồng cónhóm cụ thể như sau chồng ít tuổi hơn vợ; sự hài lòng kém hơn so với nhóm vợ chồngchồng bằng tuổi vợ; chồng hơn vợ 1-5 tuổi học ngang nhau hay chồng học cao hơn vợ,và chồng hơn vợ từ 6 tuổi trở lên. Bảng 4 nhưng khác biệt này không có ý nghĩacho thấy không có khác biệt đáng kể về thống kê. Tuy nhiên, sự khác biệt về thumức độ hài lòng của các nhóm vợ chồng nhập có liên quan chặt chẽ với mức độ hàivới cách biệt tuổi tác khác về hôn nhân. Những người ở nhóm vợ63 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020chồng thu nhập ngang nhau có mức độ hàilòng cao nhất, tiếp đó đến nhóm chồng cóthu nhập cao hơn vợ và sự hài lòng thấpnhất rơi vào nhóm người vợ có thu nhậpcao hơn quan niệm truyền thống, công việcnội trợ gắn với phụ nữ, từ đó có thể xuấthiện định kiến giới về phân công công việcgia đình. Nhưng nghiên cứu này đã pháthiện ra rằng, sự bình đẳng về phân côngcông việc nội trợ gắn với hài lòng hônnhân, trong đó, gia đình nào vợ chồng chiasẻ nhiều hơn về công việc nội trợ thì mứcđộ hài lòng cao hơn đáng kể so với nhữnggia đình mà vợ hoặc chồng làm nhiều hơnkể cả trường hợp khi người chồng làmnhiều việc nội trợ hơn thì mức độ hài lòngkhông khác biệt đáng kể với trường hợpngười vợ làm nhiều hơn. Như vậy, ngàynay, sự bình đẳng giữa vợ chồng về làmviệc nhà, về lao động kiếm tiền đã được đềcao hơn, nhưng vẫn còn sự tự ti của namgiới khi thu nhập kém vợ và những ngườiđó ít hài lòng nhất với hôn Ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hài lòng hôn nhânĐể nhận diện rõ vai trò của từng biến sốđến sự hài lòng hôn nhân, mô hình phântích đa biến số được thực hiện. Biến phụthuộc trong trường hợp này là khả năngngười trả lời có sự hài lòng về hôn nhânchung. Dựa vào phân bố điểm hài lòngchung về hôn nhân, có 2 nhóm được hìnhthành 0-8 điểm nhóm hài lòng thấp hơn;9-10 điểm nhóm hài lòng cao hơn, nhóm9-10 điểm được coi là nhóm rất hài mô hình hồi quy logistic, các biếnđộc lập sẽ là những yếu tố nhân khẩu - xãhội ở trên. Mô hình xem xét tác động củachúng đến sự rất hài lòng với hôn nhânBảng 5. Có 3 mô hình được phân tích làmô hình chung dành cho tất cả những ngườitrả lời; mô hình nam dành cho người trả lờilà nam giới; và mô hình nữ dành cho ngườitrả lời là nữ 5 Ảnh hưởng của các biến số nhân khẩu - xã hội đến sự hài lòng cao về hôn nhân [7].Chung Nam NữCác biến số nhân khẩu-xã hội Tỷ số chênh N Tỷ số N Tỷ số Nchênh chênhGiới tính Nam 1,54*** 841Nữ nhóm so sánh-ss 1 90629 trở xuống 0,5** 155 0,36*570,689830-390,734860,632130,82273Tuổi 40-490,83469 0,57*2291, 0,53*2421,1421760 trở lên nhóm ss 1 178 11001Khác biệtVợ hơn chồng0,971881,07910,8597Vợ bằng chồng1,132100,951031,25107tuổi Chồng hơn vợ 1-5 tuổi0,839840,754610,8852364 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ HằngChồng hơn vợ 6 tuổi+ 1 365 11861179nhóm ssTiểu học trở xuống 2,0** 3771,161352,98**242Học vấn Trung học cơ sở 2,0** 6351,573042,56**331Trung học phổ thông1,72**417 1,76*2361,60181hiện tại Trung cấp-Cao đẳng-Đại 1 318 11661152học nhóm ssKhác biệtBằng nhau0,9110321,145000,90532Vợ hơn chồng 0,68* 2770,861230,76154học vấn Chồng hơn vợ nhóm ss 1 438 12181220Chưa có con1,22700,97401,4030Số con Một con 2,18*** 3342,44**1851,75*149Hai con1,47**7911,183531,71**438Ba con trở lên nhóm ss 1 552 12631289Chưa có con0,82700,85400,8830Giới tính Chỉ con trai0,80442 0,62*2051,02237con Chỉ con gái0,853510,801860,88165Có cả trai và gái nhóm ss 1 884 14101474Hoạt độngCao cấp-Trung cấp 2,54*** 2222,41**1282,67*94Sơ cấp-nhân viên kỹ thuật1,153981,192221,10176chính Không làm việc 2,0** 1450,88342,46***111Người trảlời Lao động giản đơn nhóm 1 982 14571525ssKhá 2,69*** 2702,53**1602,63**110Mức sống Trung bình1,2712951,126151,34680Nghèo nhóm ss 1 182 1661116Khác biệtVợ hơn chồng 0,68* 299 0,59*1180,75181Chồng hơn vợ0,939560,824761,03480thu nhập Ngang nhau nhóm ss 1 492 12471245Tham gia Làm bằng nhau1,31205 1,65*1081,0597công việc Chồng làm nhiều hơn0,971200,94841,4036nội trợVợ làm nhiều hơn nhóm ss1142216491773Khu vực Nông thôn 1,28* 987 1,47*4901,05497Thành thị nhóm ss 1 760 13511409-2 Log likelihood 2249,53 1092,49 1120,64Nagelkerke R Square 0,10,110,1N1747841 906Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Trước hết là đối với mô hình 5 cho thấy, ảnh hưởng riêng của mộtsố biến nhân khẩu - xã hội đối với sự hàilòng hôn nhân có sự trùng hợp với kết quảphân tích hai biến, nhưng một số biến sốkhác, lại có sự khác biệt nhất định. Nhìnchung, nam có xác suất hài lòng với hônnhân cao hơn so với nữ. Sự hài lòng có xuhướng tăng lên theo độ tuổi, trong đó nhómtuổi từ 29 trở xuống có xác suất hài lòngcao thấp nhất, chỉ bằng một nửa so vớinhóm tuổi từ 60 trở lên. Chênh lệch tuổigiữa vợ và chồng không có tác động đángkể đến sự hài lòng cao với hôn về yếu tố học vấn, nhóm có học vấncao nhất có trình độ trung cấp, cao đẳng,đại học trở lên là nhóm có xác suất rất hàilòng hôn nhân thấp nhất so với tất cả cácnhóm có trình độ học vấn thấp hơn. Nhómhọc vấn từ trung học phổ thông trở xuốngcó khả năng rất hài lòng về hôn nhân caohơn gần gấp đôi so với nhóm học vấn thể yêu cầu cao hơn về đời sống hônnhân ở nhóm học vấn cao đã khiến cho họkém hài lòng hơn về thực tế hôn nhân củamình. Liên quan đến chênh lệch học vấn vợchồng, nhóm những người mà học vấn vợcao hơn chồng có xác suất rất hài lòng kémhơn đáng kể so với nhóm chồng có học vấncao hơn vợ khoảng 0,7 lần. Định kiến giớivới xu hướng phụ nữ mong muốn có ngườiđàn ông hơn mình và nam giới thích ngườiphụ nữ kém hơn khi lựa chọn hôn nhânphụ nữ trông lên, đàn ông nhìn xuống cóthể là lý do khiến cho những cặp vợ chồngmà vợ có học vấn cao hơn cảm thấy kémhài lòng về cuộc hôn nhân của 5 cũng cho thấy, so với nhữngngười có 3 con trở lên, nhóm những ngườicó 1 hoặc 2 con có xác suất rất hài lòng vềhôn nhân là lớn hơn đáng kể. Xác suất rấthài lòng của nhóm có một con gấp đôi sovới nhóm có ba con trở lên. Sự chuyển đổimạnh mẽ về kinh tế - xã hội ở Việt Nam cóthể lý giải một phần cho mối tương quannghịch chiều giữa số lượng con cái và sựhài lòng hôn nhân của cha mẹ. Như đã phântích ở trên, tâm lý “đông con nhiều cháu”không còn là mong ước chủ đạo của ngườidân Việt Nam. Thực tế, nuôi dạy con cáivới những yêu cầu mới ngày càng khó khănhơn so với trước đây đã khiến cho nhậnthức của người dân về số con thay đổi. Khiphụ nữ tham gia vào lực lượng lao động xãhội nhiều hơn, chi phí đầu tư cho việc nuôidạy con cái cao hơn và sự phụ thuộc củangười cao tuổi vào con cái ít đi thì vai tròcủa việc có nhiều con đối với sự hài lònghôn nhân sẽ giảm [1], [25, [6, tính của con không còn là vấn đềtác động đáng kể đến mức độ rất hài lòngvề hôn nhân. Cho dù chỉ có con trai hay gái,hay có đủ cả con trai, con gái thì sự khácbiệt về hài lòng hôn nhân là không đáng có thể là bằng chứng mạnh mẽ cho sựthay đổi về quan niệm phân biệt giá trị contrai và con gái trong gia đình Việt Namhiện nay. Bối cảnh hiện đại hoá có thể lýgiải cho việc con cái tuy vẫn có ý nghĩaquan trọng trong cuộc sống gia đình nhưngảnh hưởng không mạnh tới sự hài lòng vềhôn nhân của những người làm cha mẹ ởViệt Nam. Điều này khá đồng nhất với cácnghiên cứu về ảnh hưởng của con cái trongquan hệ hôn nhân trên thế động nghề nghiệp được đo lườngthông qua chỉ báo về trình độ chuyên môncó ảnh hưởng đáng kể đến sự hài lòng caođối với hôn nhân. Những người làm công66 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngviệc đòi hỏi trình độ cao cấp hay trung cấpcó xác suất rất hài lòng về hôn nhân caohơn khoảng 2,6 lần so với những người làmcông việc lao động giản sống tiếp tục được xác nhận là yếutố quan trọng trong cuộc sống hôn người có mức sống khá trở lên cóxác suất rất hài lòng về hôn nhân gấp gần 3lần so với những người thuộc nhóm chỉ báo khác liên quan đến đời sốngvật chất là sự khác biệt về thu nhập giữa vợvà chồng. Quan niệm truyền thống vốn coinam giới là trụ cột kinh tế gia đình, vì vậy,kỳ vọng của mọi người là thu nhập củangười chồng cao hơn người vợ. Có lẽ, đó làlý do khiến cho nhóm người mà vợ thunhập cao hơn chồng có xác suất rất hài lòngvề hôn nhân thấp hơn đáng kể so với nhómvợ chồng có thu nhập ngang nhau hoặcchồng có thu nhập cao hơn chỉ bằngkhoảng gần 0,7 lần. Kết quả này phản ánhmột phần sự bảo lưu định kiến giới truyềnthống về vai trò của người vợ và ngườichồng trong kinh tế gia đã chỉ ra ở một số nghiên cứu,trong nhiều năm qua đã có một số thay đổiđáng kể về bình đẳng giới trong đời sốnggia đình, tuy nhiên, khuôn mẫu giới trongcông việc nhà vẫn còn được bảo lưu mạnhmẽ [1], [6, Nghiên cứu hôn nhân2017 tiếp tục xác nhận khuôn mẫu đó. Tỷ lệcác gia đình có người vợ là người làm côngviệc nội trợ nhiều hơn người chồng là khácao. Tuy nhiên, xét chung thì sự thay đổikhuôn mẫu này theo hướng chia sẻ côngviệc nội trợ chưa tác động mạnh để làmtăng sự hài lòng hôn nhân cho người quả nghiên cứu cũng cho thấy, saukhi đã tính đến vai trò của các biến số khác,những người ở nông thôn có xác suất hàilòng hôn nhân cao hơn đáng kể so vớingười dân ở thành nam và nữ có cảm nhận hài lòng hônnhân khác nhau đáng kể và các yếu tố ảnhhưởng cũng có thể thể hiện khác nhau ởnhóm nam hay nhóm nữ chẳng hạn ở vaitrò các yếu tố thuộc về định kiến giới,nghiên cứu đã tiến hành phân tích các yếutố tác động riêng đối với sự hài lòng hônnhân của nam và nữ. Bảng 5 cũng cho thấy,về cơ bản, vai trò của các yếu tố tác độngmạnh đến sự hài lòng ở mỗi giới cũng phùhợp với mô hình chung. Tuy nhiên, có mộtsố khác biệt cho thấy rõ hơn đặc trưng với nam giới mô hình nam, sựkhác biệt về xác suất hài lòng cao về hônnhân giữa các độ tuổi trẻ so với độ tuổi 60trở lên thể hiện rõ hơn. Nhìn chung, so vớinhóm tuổi 60 trở lên, các nhóm ở độ tuổitrẻ hơn đều có xác suất hài lòng cao chỉbằng khoảng từ 1/3 đến 1/2. Về học vấn,chỉ có nhóm trung học phổ thông là có xácsuất hài lòng cao hơn đáng kể so với nhómcó học vấn trung cấp - cao đẳng - đại người có một con có xác suất rấthài lòng về hôn nhân cao hơn những ngườikhác. Về giới tính con cái, điều đặc biệt lànhóm chỉ có con trai lại có xác suất rất hàilòng thấp hơn đáng kể so với nhóm có cảcon trai và con gái. Nhìn chung, có nếp cótẻ vẫn là mong ước lớn của nam với nam giới thì sự khác biệt thunhập hay tham gia công việc nội trợ có tácđộng đến sự hài lòng hôn nhân mạnh hơnso với mô hình chung. Những người màtrong gia đình công việc nội trợ được chiasẻ ngang nhau giữa vợ và chồng thì xácsuất hài lòng hôn nhân cao là gấp 1,7 lần sovới những người mà một trong hai vợchồng phải làm việc nội trợ nhiều Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Đối với phụ nữ mô hình nữ, khác vớinam giới, ảnh hưởng của yếu tố tuổi đến sựhài lòng hôn nhân là không đáng kể. Nhữngngười có học vấn thấp thì xác suất rất hàilòng hôn nhân cao hơn rõ rệt so với ngườicó học vấn cao. Trong trường hợp vợ có thunhập cao hơn chồng thì xác suất rất hài lònghôn nhân không thấp đáng kể so với trườnghợp vợ chồng thu nhập bằng nhau, cho dùkhả năng rất hài lòng cũng thấp hơn. Mộtđiểm nữa là sự tham gia công việc nội trợkhác nhau giữa vợ và chồng không có tácđộng đáng kể đến xác suất rất hài lòng hônnhân của người vợ. Nói cách khác, các biếnsố đo lường về định kiến giới cho thấy yếutố này ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơnđến phụ nữ. Ngoài ra, khác biệt giữa nhómphụ nữ sống ở nông thôn và thành thịkhông thực sự đáng Kết luậnVới một lượng mẫu phân tích lớn, kết quảkhảo sát hôn nhân năm 2017 cho thấy, nhìnchung, người dân Việt Nam hài lòng về hônnhân của mình cũng như với các mặt cụ thểcủa đời sống hôn nhân với mức độ cao. Mốitương quan mạnh giữa sự hài lòng chung vàhài lòng ở từng khía cạnh cụ thể cho thấy, 6lĩnh vực được phân tích là những mặt rấtquan trọng trong đời sống hôn nhân. Kếtquả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tình cảmvợ chồng có ý nghĩa quan trọng nhất đốivới đời sống hôn nhân, tiếp đó là tính cáchvà ứng xử của vợ/ xét vai trò của các biến số nhânkhẩu - xã hội đối với sự hài lòng về hônnhân, kết quả phân tích cho thấy, nam hàilòng hôn nhân cao hơn nữ, điều này là phùhợp với hầu hết phát hiện của các nghiêncứu trước đây [10, [20, [17, Người cao tuổihài lòng về hôn nhân hơn người trẻ tuổi, lýdo cơ bản có thể là vì những người cao tuổivề cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu cuộcsống, trong khi những người trẻ tuổi hơn thìđang có nhiều mối quan tâm phải giảiquyết. Kết quả này khác với một số pháthiện đã có trước đây [20, [27, Những người có học vấn caohơn dường như có yêu cầu cao hơn về cuộcsống hôn nhân của mình, vì vậy sự hài lònghôn nhân của họ thấp hơn những người cóhọc vấn thấp. Số lượng con cái có ảnhhưởng đến sự hài lòng hôn nhân, tuy nhiên,theo xu hướng ngược với khuôn mẫu truyềnthống. Những người có một - hai con cómức độ hài lòng hôn nhân cao hơn nhữngngười chưa có con và những người có 3 contrở lên. Trong khi đó, giới tính con cáikhông có ảnh hưởng đáng kể đến sự hàilòng hôn nhân. Những kết quả này khác vớimột số phát hiện trước đây ở các này cho thấy tính đa dạng trong ảnhhưởng của yếu tố con cái đến sự hài lònghôn người có trình độ nghề nghiệpcao hơn thể hiện mức độ hài lòng cao hơnđối với hôn nhân của mình. Mức sống caocũng có ảnh hưởng đáng kể làm tăng sự hàilòng về hôn nhân như đã được chỉ ra ở mộtsố nghiên cứu khác [11]. Những người sốngở nông thôn có xác suất hài lòng cao hơnnhững người ở đô thị. Điều này có thể đượclý giải là do đòi hỏi cao hơn về cuộc sốnghôn nhân của những người dân đô số phát hiện quan trọng trong nghiêncứu này có liên quan đến việc so sánhđặc điểm vợ chồng, bởi lẽ trong hôn nhân,68 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngsự hòa hợp, tương tác giữa hai vợ chồng rấtcó ý nghĩa. Phân tích cho thấy, chênh lệchtuổi giữa vợ và chồng không thực sự có tácđộng quan trọng đến sự hài lòng hôn khi đó, sự khác biệt giữa vợ vàchồng về học vấn, thu nhập đều có ảnhhưởng đáng kể đến sự hài lòng hôn chung của các phát hiện này là,dường như định kiến giới truyền thống vềvai trò của vợ và chồng vẫn có sức sốngmạnh mẽ trong đời sống hôn nhân ở ViệtNam. Những người trong gia đình có vợhọc cao hơn chồng hay vợ có thu nhập caohơn chồng thì có sự hài lòng thấp hơn. Tuynhiên, một điểm sáng về thay đổi nhận thứcgiới đó là, giới tính con cái không ảnhhưởng đến sự hài lòng hôn nhân. Phát hiệnđáng quan tâm nữa là, định kiến giới vềtrách nhiệm trong việc lo kinh tế và thựchiện công việc nội trợ của gia đình ảnhhưởng đến sự hài lòng về hôn nhân củanam giới hơn là của phụ thích5Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,thành phố Cần Thơ, Yên Bái, Nam Định, ThừaThiên - Huế, Đắk liệu tham khảo[1] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cụcThống kê, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới,UNICEF 2008, Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội.[2] Hoàng Đốp 2004, “Giá trị con cái trong giađình”, Xu hướng gia đình ngày nay Một vàiđặc điểm từ nghiên cứu thực nghiệm tại HảiDương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.[3] Phan Thị Mai Hương 2014, “Cảm nhận hạnhphúc chủ quan của người nông dân”, Tạp chíTâm lý học, số 185.[4] Trần Đình Hượu 1991, “Về gia đình truyềnthống Việt Nam với ảnh hưởng nho giáo”,Những nghiên cứu xã hội học về gia đình ViệtNam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.[5] Đỗ Thiên Kính 2009, “Gia đình hạnh phúc ởnông thôn Việt Nam hiện nay”, Tạp chíNghiên cứu Gia đình và Giới, số 1.[6] Nguyễn Hữu Minh 2015, “Gia đình ViệtNam sau 30 năm đổi mới”, Tạp chí Khoa họcxã hội Việt Nam, số 11.[7] Nguyễn Hữu Minh 2018, Khảo sát thực tế trongđề tài “Những đặc điểm cơ bản của hôn nhân ở ViệtNam hiện nay và các yếu tố ảnh hưởng”.[8] Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Hồng 2011,“Thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam về hônnhân và gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu Giađình và Giới, số 4.[9] Hoàng Bá Thịnh 2012, “Sự hài lòng với hônnhân, gia đình”, Tạp chí Dân số và Phát triển,số 8 137.[10] Allendorf, K. and Ghimire, 2013,“Determinants of marital quality in an arrangedmarriage society”, Social Science Research, 42 1.[11] Amato, P. R., Booth, A., Johnson, D. R., Rogers,S. F., 2007, “Alone together how marriagein America is changing”, Harvard UniversityPress, the United State.[12] Andersson, G. and Woldemicael, G. 2001, “Sex composition of children as a determinant of marriage disruption and marriage formationEvidence from Swedish register data”, Journalof Population Research, 18 2.[13] Bradbury Thomas N., Frank D. Fincham,Steven R. H. Beach 2000, “Research on theNatureandDeterminantsofMaritalSatisfaction A Decade in Review”, Journal of Marriage and Family, 62 4.69 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020[14] Bulanda, J. R. 2011, “Gender, Marital Power,and Marital Quality in Later Life”, Journal ofWomen & Aging, 23 1.[15] Dillon, and Beechler, M. P 2010,“Marital satisfaction and the impact of childrenin collectivist cultures A meta-analysis”,Journal of Evolutionary Psychology, 8 1.[16] Ghahremani, F., Doulabi, M. A., Eslami, M. &Shekarriz-Foumani, R. 2017, “CorrelationBetween Number and Gender Composition ofChildren and Marital Satisfaction in WomenPresenting to Health Centers in Tehran-Iran,2015”, Iranian Journal of Psychiatry andBehavioral Sciences, 11 2.[17] Halpern-Meekin, S., & Tach, L. 2013,“Discordance in couples’ reporting of courtshipstages Implications for measurement andmarital quality”, Social Science Research, 42.[18] Jose, O. & Alfons, V. 2007, “DoDemographics Affect Marital Satisfaction?”,Journal of Sex & Marital Therapy, 33 1.[19] Kohler, Behrman, & Skytthe, A.2005, “Partner + Children = Happiness? TheEffects of Partnerships and Fertility on Well-Being”, Population Development Review, 31 3.[20] Lee, G., & Shehan, C. L. 1989, “Retirementand marital satisfaction”, Journal of Geron-tology, 44 6.[21] Lundberg, S. 2005, “Sons, daughters, andparental behavior”, Oxford Review ofEconomic Policy, 21 3.[22] Li Tianyuan and Fung Helene H. 2011, “TheDynamic Goal Theory of Marital Satisfaction”,Review of General Psychology, Vol. 15, No. 3.[23] Lichter, D. L., & Carmalt, J. H. 2009, “Religionand marital quality among low-income couples”,Social Science Research, 38.[24] Mizell, C. A. and Steelman, L. C. 2000, “All MyChildren The Consequences of Sibling GroupCharacteristics on the Marital Happiness of YoungMothers”, Journal of Family Issues, 21 7.[25] Moshfeg, M. and Gharib, E. S. 2012, “Analysisof the relationship between the value of childrenand fertility among women in Tehran”, Journalof Women's Strategy Studies, 15 58.[26] Onyishi, Sorokowski, P., Sorokowska, A.,& Pipitone, R. N. 2012, “Children andmarital satisfaction in a non-Western samplehaving more children increases maritalsatisfaction among the Igbo people of Nigeria”,Evolution and Human Behavior, 33 6.[27] Rhyne, D. 1981, “Bases of maritalsatisfaction among men and women”, Journalof Marriage and Family, 43 4.[28] Roach, A., Frazier, L., & Bowden, S. 1981,“The marital satisfaction scale Developmentof a measure of intervention research”, Journalof Marriage and Family, 43.[29] Twenge, J. M., Campbell, W. K. and Foster, 2003, “Parenthood and maritalsatisfaction A meta-analytic review”, Journalof Marriage and Family, 70 ResearchGate has not been able to resolve any citations for this Marital satisfaction is defined as a mental state reflecting the pressures and benefits perceived by the couple in their life. Several factors seem to contribute to marital satisfaction and success including having children. Objectives The present study aimed at evaluating the effect of the number and gender composition of children having only sons, only daughters, and children of both genders on marital satisfaction in women of childbearing age in Tehran. Methods This descriptive correlational study was conducted on 213 married females aged 15 to 45 years presenting to health centers in Tehran, Iran, in 2015. The demographic questionnaire, the ENRICH marital satisfaction scale, and a researcher-made childbearing questionnaire were used for data collection. Data were analyzed using descriptive statistics mean and standard deviation and ANOVA in SPSS version 17. The level of statistical significance was set at P < Results The results of the present study revealed a significant correlation between the mean score of marital satisfaction and the number of children P = for instance, women's marital satisfaction reduced with an increase in the number of children. The results also revealed a greater marital satisfaction in women with children of the same gender than in those with children of both genders. Moreover, the mean score of marital satisfaction was significantly higher in women with only sons than in those with either only daughters or with children of both genders P = Conclusions Women's marital satisfaction decreased with an increase in the number of children. Children's gender affected marital satisfaction. Women with only sons had a greater marital satisfaction than those women with only daughters, or with children of both research has demonstrated that having more children decreases marital satisfaction among parents. However, the universality of these findings is limited since the vast majority of the studies have been conducted in Western countries. In the present study, 374 people from the Igbo ethnic group Nigeria were assessed for levels of marital satisfaction and the number of children. In contrast to almost all previous findings, we found a positive relationship between the number of children and marital satisfaction among parents. Number of children was the strongest predictor of marital satisfaction even when compared to other variables like wealth and education. Our results suggest that the negative relationship between the number of children and marital satisfaction is not culturally universal and probably only characterizes developed, individualistic Western countries. We discuss our findings from a sociocultural and evolutionary satisfaction is gaining increasing concern in modern society. The current review proposes the dynamic goal theory of marital satisfaction to integrate previous findings about marital satisfaction from a life span developmental perspective. The theory argues that people have multiple goals to achieve in their marriage. These marital goals can be classified into three categories personal growth goals, companionship goals, and instrumental goals. The priority of the three types of marital goals is under dynamic changes across adulthood. Generally speaking, young couples emphasize the personal growth goals, middle-aged couples prioritize the instrumental goals, and old couples focus on the companionship goals. Whether the prioritized marital goals are achieved in marriage determines marital satisfaction. Other factors influencing marital satisfaction can be linked with marital goals in two ways. Some factors, such as life transitions and cultural values, can affect the priority of different marital goals; while other factors, such as communication pattern, problem solving, and attribution, can facilitate the achievement of the prioritized marital goals. PsycINFO Database Record c 2012 APA, all rights reserved Nguyễn Hữu MinhTran Thi HongDựa trên số liệu Điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần thứ hai SAVY, 2009 và số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, bài viết phân tích thái độ và sự biến đổi thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam về một số vấn đề hôn nhân và gia đình. Kết quả phân tích cho thấy tình trạng nam nữ chung sống không kết hôn được một bộ phận thanh thiếu niên chấp nhận và tỷ lệ chấp nhận có xu hướng tăng lên sau 3 năm. Nhóm thanh thiếu niên là nam giới, sinh sống ở thành thị, có sử dụng Internet có tỷ lệ chấp nhận hiện tượng xã hội này cao hơn nhóm nữ giới, nhóm sống ở nông thôn và nhóm không sử dụng Internet. Tỷ lệ chấp nhận việc "phụ nữ không chồng mà có con" cũng gia tăng đáng kể sau 3 năm. Một bộ phận thanh thiếu niên có xu hướng chấp nhận sống độc thân như là một lối sống. Và vẫn còn một số lượng đáng kể thanh thiếu niên coi trọng việc phải có con trai. Bài viết đã nêu lên một số gợi ý về chính sách nhằm định hướng thái độ tích cực của thanh thiếu niên về quan hệ hôn nhân và gia RhynePossible gender differences in bases of marital satisfaction were investigated through male-female variations in 1 overall marital quality; 2 satisfaction with love, interest, friendship, sexual gratification, time spent at home and with children, help at home, spouse's friends, and treatment by in-laws; and 3 correlations between general evaluations of marital quality and satisfaction with specific marital characteristics. It was found that marital quality of men and women differs in degree rather than in kind. Although men are more satisfied with their marriages than women, the same factors are important in their assessments. These aspects are more important to the overall marital quality for women, but their saliency varies by stages of the family life cycle. There are indications of differential assessment, with women more sexually fulfilled, while men are more satisfied with spouse's help, time with children, and friendship; results also suggest a greater focus by women on J RoachLarry P FrazierSharon R BowdenThis study reviews the development of the Marital Satisfaction Scale MSS. The MSS was designed to assess one's level of satisfaction toward his or her own marriage. Marital satisfaction was defined as an attitude of greater or lesser favorability toward one's own marital relationship. Measurement of the perception of one's marriage by means of an attitude scale was the focus of the effort. Design objectives for developing the measure were to generate a new set of items, to utilize a single-item style with an easy scoring system, to guard against contamination by marital conventionalization and social desirability, and to provide items which could reflect attitudinal change likely to occur as a result of marital intervention. Research results indicate that the instrument has very high internal consistency, sufficient test-retest reliability and validity, and a low degree of contamination with social desirability. Daniel T. LichterJulie H. CarmaltIn this paper, we examine the question of whether religion—affiliation, beliefs, and practice—provides a source of marital strength and stability in the lives of American couples. Unlike most previous studies, we focus on religion and marital quality among 433 low-income married couples with co-residential minor children, using recently collected survey data on both spouses sampled in the Marital and Relationship Survey MARS. Our working hypothesis is that religiosity is a positive force for marital quality among low-income couples, and that a practicing faith can buffer the negative effects of economic stress on marital quality. The results indicate that most low-income couples have unexpectedly high scores on the various dimensions of marital quality commitment, emotional support, etc.. Religious affiliation and personal religious beliefs are less important for marital quality than if couples share similar beliefs about God’s divine plans for them and their relationship, if they pray together, or if they attend religious services together. On the other hand, the stress-buffering hypothesis received little support in our analysis. At a minimum, the results clearly highlight the potential role of religion in the marital lives of low-income couples. The implication is that faith-based organizations including churches and synagogues may have a particularly strong role to play in nurturing the spiritual lives and enhancing the quality of the intimate marital relationships of their Marie DillonMichelle Provenzano BeechlerMany studies have established that the presence and number of children have a negative impact on marital satisfaction. Those that maintain an evolutionary perspective may find this result surprising. It is argued that a couple that has successfully reproduced together ought to have heightened satisfaction. The majority of studies confirming this negative impact children bring have been on samples of participants from individualist cultures such as the United States and Canada. This severely limits the generalizability of this finding. In order to determine the relevance of cultural type, collectivist and individualist, we conducted a meta-analysis that aggregated the findings of fifteen studies that contained samples from collectivist cultures. All studies used in this meta-analysis contained samples from outside the United States. The purpose of this presentation is to discuss the findings from our meta-analysis on the impact of children on marital satisfaction. The present meta-analysis found a small, negative relationship between children and marital satisfaction d = r = that is significantly lower than another meta-analysis conducted using samples from individualistic cultures. Maternal age and type of measure were significant moderators. It may be that collectivist cultures foster shared childcare within the extended family, and this arrangement buffers stressors that people from individualist cultures are more likely to Halpern-MeekinLaura TachThe symbolism of rituals creates a shared understanding of events among group members. In the context of romantic relationships, a shared understanding of relationship status transitions may be associated with greater commitment and higher quality relationships. We argue that couples with differing retrospective accounts of their premarital courtship may not have had clear discussions or rituals marking relationship turning points. We test the association between discordance in couples' reports of premarital courtship stages and marital quality using data from married couples in a national online survey n=1504. We find that couple discordance is common, particularly among former premarital cohabitors and for the less institutionalized relationship stages of dating and stayovers, and is associated with lower marital quality. Implications for relationship measurement and the meaning of couple discordance are discussed. Đời sốngTổ ấm Chủ nhật, 13/3/2022, 1154 GMT+7 Khảo sát trên 200 phụ nữ Mỹ của tiến sĩ tâm lý Lehmiller, những người hẹn hò với đàn ông trẻ hơn 10 tuổi là hạnh phúc nhất. Nhiều phụ nữ khi đến tuổi kết hôn thường đặt tiêu chí chọn chồng hơn tuổi, thậm chí nhiều tuổi bởi cho rằng đàn ông hơn tuổi thường chín chắn, đạt được thành tựu nhất định trong sự nghiệp, làm vợ những người như vậy sẽ yên tâm hơn. Trong khi đó người khác lại thích lấy chồng bằng tuổi vì dễ trao đổi, tâm sự thẳng thắn với sát của Trung tâm nghiên cứu Pew ở Mỹ cho thấy, từ 70% đến 80% người chọn bạn đời cùng tuổi khi kết hôn lần đầu tiên. Đối với các cặp cách biệt tuổi tác, 10% đàn ông thường có bạn đời trẻ hơn từ 6 - 9 tuổi, và 5% đàn ông kết hôn với phụ nữ trẻ hơn 10 tuổi hoặc nhiều hơn. Với nhiều người, tuổi tác của bạn đời cũng góp phần quan trọng quyết định đời sống hôn nhân. Ảnh minh họa Christian Rudder, đồng sáng lập OkCupid, một trang web hẹn hò trực tuyến của Mỹ, đã thực hiện cuộc khảo sát cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa nam giới và phụ nữ về sở thích tuổi của bạn đó, hơn một nửa phụ nữ được hỏi sẽ tìm kiếm đối tác bằng tuổi mình hoặc hơn 1-2 tuổi, trong khi đàn ông lại có mong muốn tìm vợ trẻ hơn. Đặc biệt, đàn ông càng nhiều tuổi lại càng thích kiếm vợ trẻ, lựa chọn nhiều nhất là ở lứa tuổi Drefahl, nhà nhân chủng học tại Đại học Stockholm, đã khảo sát những người trên 50 tuổi ở Đan Mạch thấy rằng đàn ông có vợ trẻ hơn thường sống lâu hơn. Theo khảo sát, bạn đời của những người đàn ông này càng lớn tuổi, họ càng có tuổi thọ ngắn hơn, dù không liên quan đến trình độ học vấn hay thu nhập. Theo Sven Drefahl suy luận, những người đàn ông có sức khỏe tốt hơn thường thu hút phụ nữ trẻ hơn, đó là lý do họ sống lâu giới bên kia, nếu bạn đời hoặc người tình của phụ nữ là đàn ông trẻ tuổi hơn, họ lại không sống lâu hơn. Sven Drefahl suy luận có thể do phụ nữ thường chiếm thế thượng phong so với người tình kém tuổi nên họ không được hưởng lợi từ sức sống của đàn ông trẻ tuổi nhiên, Lehmiller, tiến sỹ tâm lý học của Mỹ đã khảo sát 200 phụ nữ, bao gồm những người hẹn hò với người đàn ông trẻ hơn họ, lớn tuổi hơn và những người bằng tuổi. Kết quả cho thấy, những người có quan hệ tình cảm với đàn ông trẻ hơn họ 10 tuổi là hạnh phúc nhất. Phái nữ cũng xác định gắn bó lâu dài hơn với tình yêu này, so với những người hẹn hò nam giới lớn tuổi hơn hoặc bằng cứu cũng nhận định việc yêu thương và làm hài lòng một phụ nữ lớn tuổi cũng mang lại hạnh phúc cho đàn ông. Tiến sĩ tâm lý giáo dục Marty Nemko ở California cho biết, các cặp chồng trẻ, vợ già có khả năng tương thích, trưởng thành và làm cha mẹ tốt nghiên cứu khác của Cục thống kê quốc gia Anh cũng chỉ ra, phụ nữ ngoài 30 tuổi mới kết hôn, mà đối tác hơn họ 10 tuổi trở lên, rất dễ ly hôn. Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa việc chênh lệch tuổi tác và ly hôn. "Có thể việc chia tay còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, chỉ là tỷ lệ ly hôn ở những cặp đôi này cao hơn hẳn so với những cặp đôi khác", nghiên cứu chỉ khoa học dẫn chứng như thế nào thì khi tình yêu đến, trốn tránh cũng không được. Chênh lệch tuổi tác dù ở nam hay nữ ngoài việc đối mặt với dư luận xã hội, quan trọng là sự đồng thuận về mặt tình cảm giữa hai người. Hãy tự mình trả lời 4 câu hỏi dưới đây để xem có thể tiếp tục giữ mối quan hệ này Đây là mối quan hệ dài hạn hay ngắn hạnNếu ngay từ đầu chỉ xác định là quan hệ ngắn hạn, miễn bên nhau vui vẻ là được. Những đối tác trẻ tuổi sẽ mang lại cho đối phương sự nhiệt huyết cũng như nhiều năng lượng, trong khi đối tác lớn tuổi có thể hỗ trợ tài chính và truyền đạt nhiều kinh nghiệm quý báu Nếu xác định mối quan hệ dài hạn, vậy có thích hợp không?Nếu đây là mối quan hệ lâu dài, cần sự đồng thuận của cả hai về tương lai. Tuổi tác chênh lệch nhau dù ít hay nhiều, thời điểm này không còn ý nghĩa. Điều quan trọng là cố gắng vun đắp cho tình cảm hai phía cũng như cuộc sống tương lai. Khi này cần phân bổ thời gian dành cho nhau để cả hai trở nên hòa hợp Bạn muốn có con không?Nếu người yêu hoặc bạn đời cách xa tuổi bạn, tốt nhất nên bàn bạc sớm về việc sinh con, bởi thời điểm sinh đẻ của phụ nữ nên dưới 35, sau tuổi này thường gặp nhiều biến chứng sản khoa. Nếu phụ nữ ở lứa tuổi 40-50 cần suy nghĩ kỹ trước quyết định làm mẹ, vì đây không phải độ tuổi lý tưởng để sinh một đứa Bạn bè và người thân có hỗ trợ không?Bạn bè và gia đình đóng vai trò quan trọng trong chuyện tình cảm của đôi lứa. Một nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ được hỗ trợ bởi bạn bè, người thân thường bền vững hơn. Ngược lại, nếu không được hỗ trợ, mối quan hệ ít nhiều cũng sẽ bị ảnh Trang Theo aboluowang Tâm sự Thứ sáu, 9/6/2023, 0000 GMT+7 Tôi là nữ, 23 tuổi, mới tốt nghiệp đại học ra trường được một năm, quen bạn trai được hơn một năm và đang bị giục cưới. Bạn trai hơn tôi 11 tuổi, quen tôi qua ứng dụng hẹn hò, lúc ấy tôi đang học đại học năm cuối. Vừa mới hết dịch nên tôi gửi thông tin trên ứng dụng đó. Anh làm quen với tôi, nhắn tin cho tôi. Ban đầu tô thấy anh hơi lớn tuổi nên cũng ngại, nhưng lần gặp đầu tiên cho em cảm giác anh đứng đắn, đàng hoàng, và còn khá trẻ hơn so với tuổi. Chúng tôi tiếp tục duy trì liên lạc, dần dần tôi cũng cảm thấy anh khá tốt nên đồng ý quen. Trước giờ tôi hay quen các anh lớn tuổi hơn vì họ chín chắn và ít bốc đồng, anh này lớn hơn tôi gần một giáp, tôi cũng hơi ngại khi bị bạn bè chế tôi dưới quê, ba mẹ làm nông, nuôi hai chị em tôi ăn học nên cũng hơi eo hẹp. Chị tôi học đại học dược nên phải học lên, khá tốn kém. Khi quen anh tôi cũng ngại. Những lần hẹn hò đầu tiên, tôi chia tiền với anh, sau đó dần dần anh giành phần trả hết. Nói thêm về bạn trai tôi, lương tháng anh khoảng 30 triệu đồng, ngoài ra còn đầu tư chứng khoán thêm. Anh có nhà cửa đàng hoàng, nhà chỉ còn anh với ba. Ba anh lớn tuổi, bị lẫn nên anh chịu trách nhiệm chăm sóc, mẹ anh mất anh hiền lành, điềm tĩnh, kiến thức khá rộng và giúp tôi hiểu biết được nhiều điều trong cuộc sống. Quen với anh, tôi được chiều chuộng rất nhiều, anh sắm sửa cho tôi đầy đủ, mua điện thoại xịn, mua laptop, mua xe mới cho tôi. Anh hay dẫn tôi đi du lịch đây đó, cũng là người đàn ông đầu tiên của tôi. Anh rất muốn có con và muốn cưới tôi làm vợ nhưng thấy tôi còn trẻ, mới ra trường nên chưa muốn lập gia đình quá sớm. Vừa rồi ba tôi bị tai nạn lao động, gãy chân, phải vào viện mổ, anh cũng giúp gia đình tôi một phần viện đã gặp mẹ tôi, mẹ cũng thấy anh là người tốt, bảo hai năm sau khi chị tôi học xong sẽ cho tôi làm đám cưới. Tôi cũng tính vậy nhưng bên nhà anh lại muốn cưới sớm vì ba anh lớn tuổi, lại nhiều bệnh, muốn thấy mặt con dâu. Anh mê trẻ con nên cũng muốn lấy vợ sớm. Mỗi lần gần gũi, tôi đều bắt anh sử dụng biện pháp an toàn. Sau khi ra trường, tôi xin được việc làm ở thành phố, lương hơi thấp, khoảng năm triệu đồng mỗi tháng, lại phải lo tiền trọ và sinh hoạt cho hai chị em. Nhờ có anh giúp đỡ nên cuộc sống của tôi cũng dễ chịu hơn được nhận xét là xinh gái, dễ thương nên được nhiều người theo đuổi. Anh hơi mập, da ngăm đen, làm công việc tuy không nặng nhọc nhưng phải làm ca. Sức khỏe anh cũng rất tốt, hay chơi thể thao. Lúc mới quen, tôi để ý anh hay đi nhậu và rất thích nhậu. Anh bảo hồi đó nhậu dữ lắm nhưng quen tôi nên bớt rồi. Tôi không thích người nhậu nhẹt nên chỉ cho anh nhậu tuần một lần thôi, anh cũng chịu, mỗi lần nhậu đều nói trước với tôi. Anh nhậu xỉn về cũng chỉ ngủ và tôi hay cằn nhằn mỗi khi chi tiêu khá thoải mái, thậm chí hơi tiêu hoang. Ngoài giờ đi làm anh hay đọc sách, tìm hiểu kiến thức về đầu tư, anh bảo "Anh chỉ giỏi kiếm tiền, còn việc tiêu tiền để em lo". Sau khi quen lâu, giờ tôi lên mạng mua đồ cho nhà anh, anh mà mua là toàn đòi đồ mắc mới chịu. Anh không biết nấu ăn, chỉ biết bắc nồi cơm điện lên và nấu mì. Tôi bắt anh học nấu ăn, anh chỉ học được món thịt kho tiêu và canh chua. Mỗi tuần tôi đến nhà anh, anh nấu cơm vài buổi cho mình với ba. Anh cũng phụ tôi nhặt rau và quét dọn nhà cửa. Gần đây anh hay dẫn tôi đi giới thiệu với bạn bè, đồng nghiệp và bà con bên nhà anh. Mọi người hay giục cưới, các cô của anh cũng đề nghị cưới sớm nên tôi phân vân, phải làm sao đây?Khánh MyĐộc giả gọi vào số 024 7300 8899 máy lẻ 4529 trong giờ hành chính để được hỗ trợ, giải đáp thắc mắc Có câu “chồng già vợ trẻ là tiên” nhưng nếu lấy vợ hơn tuổi thì sẽ như thế nào? Việc vợ hơn tuổi chồng gây ra những bất lợi gì trong cuộc sống gia đình? Hãy vợ lớn tuổi hơn chồng có hạnh phúc không? Cùng tìm hiểu những khía cạnh ấy trong bài viết này nhé! Lấy vợ hơn tuổi thì hôn nhân dễ ở bên bờ vực? Thông thường, rào cản lớn nhất của các cặp “vợ già chồng trẻ” đó là tuổi tác. Chỉ cần cùng tuổi thôi, giữa vợ chồng đã như đôi đũa lệch rồi, huống gì người nhiều tuổi hơn lại là nữ giới. Rất nhiều cặp đôi chồng trẻ hơn vợ nổi tiếng Chẳng hạn như lấy cái mốc 30 tuổi ra làm ví dụ. Ba mươi là độ tuổi đàn ông bước vào giai đoạn “chín muồi” nhất, hấp dẫn nhất. Nhưng phụ nữ ba mươi là đã toan về già. Áp lực gia đình, thời gian, việc sinh nở… đều để lại dấu vết trên gương mặt và cơ thể người phụ nữ. Càng có tuổi, phụ nữ càng buồn phiền vì mình ngày một già đi, còn chồng thì phong độ hơn. Hơn nữa, quá trình lão hóa da bao giờ cũng đến bên người phụ nữ trước cánh mày râu. Còn người đàn ông thì bị coi là “phi công trẻ lái máy bay bà già”. Tất cả đều giống như quả bom hẹn giờ, khiến mối quan hệ hôn nhân dễ đi đến bờ vực nếu không đủ thấu hiểu, yêu thương. Hôn nhân có bền lâu hay không phải do tuổi tác quyết định tất cả Vẻ bề ngoài đã thế, khoảng cách trong suy nghĩ giữa đàn ông và đàn bà lại càng lớn hơn. Khi con trai lấy vợ hơn tuổi, chưa chắc họ đã vứt bỏ được hết cái tính ham vui, “trẻ trâu” của mình. Còn người phụ nữ thường rất chín chắn trong suy nghĩ, hành động. Trong hôn nhân, nếu người vợ đảm nhận vai trò lèo lái, chèo chống, còn người đàn ông vẫn luôn bốc đồng thì hôn nhân cũng khó bền lâu. Lấy vợ hơn tuổi hạnh phúc hay không không phụ thuộc vào tuổi tác Tuổi tác không phải lúc nào cũng là nguyên nhân khiến quan hệ vợ chồng hơn tuổi đổ vỡ. Vì không phải lúc nào phụ nữ lấy chồng trẻ cũng giống như có thêm đứa “con trai” để chăm sóc. Vì khi một người đàn ông yêu một người phụ nữ. Họ cảm thấy cô ấy nhỏ bé, cần được chăm sóc, bất chấp tuổi tác hay khoảng cách suy nghĩ. Hơn nữa, khi yêu phụ nữ lớn hơn tuổi, đàn ông cũng nhanh học cách trở nên chững chạc hơn. Đó như một bản năng của phái mạnh. Người ta thường nói đàn ông thông minh nên lấy vợ lớn hơn tuổi Ngoài ra, phụ nữ lớn tuổi thường có sự bao dung và tha thứ lớn hơn. Vì họ đã qua rồi thời kỳ giận dỗi vu vơ, hay hở chút là bỏ về nhà mẹ. Năm tháng tôi luyện cho họ sự chín chắn, chỉn chu, điềm đạm mà không có cô gái trẻ nào có được. Vì vậy, trước lỗi lầm của chồng, họ thường thấu hiểu và tha thứ dễ hơn. Họ đủ bao dung để người đàn ông có thời gian nhìn lại lỗi lầm của mình và trưởng thành hơn. Không có cuộc hôn nhân nào là hoàn hảo, nhưng được chung sống với người mình yêu thương đã là một điều hạnh phúc rồi. Vì vậy, đừng băn khoăn vợ già chồng trẻ có hạnh phúc không. Vì hôn nhân muốn hạnh phúc thì tuổi tác không phải yếu tố chính. Mà điều quan trọng là 2 bên có đủ thấu hiểu nhau, chia sẻ với nhau. Những cặp đôi nổi tiếng lấy vợ hơn tuổi vẫn ngọt ngào, hạnh phúc Trong đời sống, hay trong giới giải trí đều có rất nhiều cặp đôi chênh lệch tuổi tác. Cùng điểm qua một số cặp đôi hạnh phúc dưới đây nhé! Khánh Thi & Phan Hiển Mối tình cô trò chênh lệch nhau 12 tuổi này từng vướng không ít thị phi từ dư luận. Khánh Thi phải chịu tai tiếng kết hôn với học trò vì tiền. Dù gặp nhiều rào cản từ gia đình, hay dư luận dậy sóng thì cả hai vẫn đang rất hạnh phúc bên 2 người con. Gia đình Khánh Thi – Phan Hiển Trấn Thành & Hari Won Tuy lớn hơn chồng 2 tuổi nhưng nhìn Hari Won lúc nào cũng tươi trẻ rạng rỡ, còn trẻ hơn chồng đến vài tuổi. Sau 3 năm kết hôn, đến nay 2 vợ chồng khiến mọi người ghen tỵ về độ đẹp đôi và tình cảm mặn nồng. Cặp đôi đình đám khiến nhiều người đỏ mắt vì ghen tỵ Khởi My & Kelvin Khánh Kelvin Khánh cũng lấy vợ hơn tuổi. Khởi My lớn hơn chồng 4 tuổi nhưng gương mặt luôn rạng rỡ, nhí nhảnh như nữ sinh. Còn Kelvin Khánh thì ngày càng chững chạc ra dáng người đàn ông có gia đình. Cặp đôi nhăng nhít được giới trẻ yêu mến nhất nhì showbiz Vợ chồng Trương Nam Thành Mối tình của Trương Nam Thành và người vợ đại gia lớn hơn 15 tuổi từng gặp rất nhiều phản ứng trái chiều. Nhiều cư dân mạng cho rằng anh lấy vợ đại gia chỉ vì tiền, nhưng anh chưa bao giờ hối hận với quyết định của mình. Sau khi lấy vợ hơn tuổi, Trương Nam Thành không chỉ có biệt thự xa hoa, mà còn “lên đời” với xế xịn bạc tỷ Người ta thường nói tình yêu đích thực không phân biệt tuổi tác. Lấy vợ hơn tuổi có thể khiến người ta dễ khác nhau trong tư tưởng, áp lực nhiều thứ và đôi chút chạnh lòng. Nhưng hạnh phúc cuối cùng cũng như một ly nước ấm – lạnh, chỉ có người uống mới biết. Nên ta không cần lăn tăn điều đó quá nhiều đúng không nào? Chúc bạn tìm ra câu trả lời cho mình và luôn hạnh phúc với sự lựa chọn ấy. Xem thêm Có nên lấy chồng nhỏ tuổi hơn mình? Làm sao để vượt qua rào cản về tuổi tác trong tình yêu? Lấy vợ là để yêu – Đàn ông có tử tế thì mới mong vợ mình tử tế Lấy chồng Tây lớn tuổi, muốn hạnh phúc bạn phải vượt qua khó khăn Vào ngay Fanpage của the Asianparent Vietnam để cùng thảo luận và cập nhật thông tin cùng các cha mẹ khác! Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay!

chồng hơn vợ 6 tuổi